Lễ bảo vệ Luận án Tiến sĩ kỹ thuật của NCS Nguyễn Đình Dũng
Hồ chứa sau một thời gian đưa vào khai thác sử dụng tùy thuộc vào điều kiện cấu tạo địa tầng, địa chất, địa hình, khí tượng, thảm phủ trên lưu vực đều bị bồi lắng ở mức độ khác nhau. Do yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong những năm gần đây, rừng đầu nguồn, khoáng sản ở các lưu vực hồ chứa bị khai thác, thảm phủ thực vật ngày càng cạn kiệt. Trong khi diễn biến mưa lũ cực đoan diễn ra bất thường dẫn đến lượng bùn cát đổ vào lòng hồ tăng nhanh, làm lấp đầy dung tích chết sớm.
Đất bồi lắng trong lòng hồ làm giảm dung tích trữ nước, chất lượng nước và bồi lấp cửa cống lấy nước, xử lý đất bồi lắng lòng hồ để kéo dài thời gian sử dụng đối với các hồ chứa đã đưa vào khai thác vài chục năm là hết sức cần thiết, cấp bách. Đất bồi lắng lòng hồ là đất mềm yếu, có lượng ngậm nước cao. Vấn đề nạo vét, vận chuyển, đổ thải đang là thách thức và gặp nhiều khó khăn về công tác đảm bảo môi trường, nếu bãi đổ thải ở xa thì phải dùng xe chuyên dụng, đối với bãi đổ thải ở gần có thể dùng tàu hút nhưng chi phí lớn.
Hà Tĩnh có 351 hồ chứa thủy lợi và 2 hồ chứa thủy điện với tổng dung tích trên 1,5 tỷ m3 nước phục vụ tưới cho trên 62000 hecta đất nồng nghiệp, sinh hoạt và nhiều ngành kinh tế khác, cắt giảm lũ vùng hạ du và cải tạo môi trường sinh thái. Qua nhiều năm đưa vào khai thác, do ảnh hưởng của mưa, lũ, hiện nay nhiều hồ chứa bị bồi lắng, hư hỏng, xuống cấp nghiêm trọng, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra sự cố trong mùa mưa, lũ cần được nâng cấp kịp thời. Có 129 hồ chứa được xây dựng từ năm 1975 về trước, có 83 hồ được xây dựng từ 1975 đến 1986, có 60 hồ được xây dựng từ 1986 đến 2002 và 79 hồ được xây dựng từ năm 2002 đến nay.
Nghiên cứu, đánh giá thực tế tại hiện trường các hồ chứa nằm ở vùng đồi bát úp thuộc dãy núi Hồng Lĩnh, Nghi Xuân, Lộc Hà, phía Đông các huyện Can Lộc, Cẩm Xuyên và Kỳ Anh cho thấy:
– Điều kiện địa chất phức tạp, rừng đầu nguồn thuộc các hồ chứa thưa thớt, có nhiều mỏ khoáng sản khai thác đá, magan…, dẫn đến lòng hồ bị bồi lắng nhanh hơn.
– Nhìn chung, các đập đất bị thấm mạnh, đặc biệt ở một số đập có hiện tượng thấm chảy thành dòng qua nền và thân đập. Các hồ gặp vấn đề về thấm không chỉ là các hồ đã được xây dựng lâu năm trong điều kiện khó khăn về kinh tế với kỹ thuật thi công lạc hậu như hồ chứa nước Lối Đồng, thị xã Kỳ Anh; hồ chứa nước Phú Tân, huyện Kỳ Anh. Ngay cả các hồ chứa mới được xây dựng gần đây như hồ chứa nước Nhà Đường, huyện Can Lộc; hồ chứa nước Ba Khe, hồ chứa nước Khe Còi, huyện Kỳ Anh; hồ chứa nước Đá Bạc, thị xã Hồng Lĩnh…cũng gặp các vấn đề lớn về thấm, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn công trình và giảm khả năng giữ nước của hồ.
NCS Nguyễn Đình Dũng báo vệ trước Hội đồng
Nghiên cứu hồ sơ khảo sát thiết kế sửa chữa, nâng cấp các hồ chứa nhận thấy:
– Các hồ chứa ở khu vực phía Tây tỉnh Hà Tĩnh có trữ lượng đất đắp lớn với các chỉ tiêu cơ lý đáp ứng tiêu chuẩn, nên các giải pháp thiết kế thường sử dụng vật liệu đất tại các vị trí gần đập.
– Các hồ chứa khu vực phía Đông tỉnh Hà T nh khan hiếm các mỏ đất đắp với các chỉ tiêu đáp ứng tiêu chuẩn nên các giải pháp thiết kế thường dùng vải địa kỹ thuật chống thấm hoặc xử lý khoan phụt vữa xi măng – sét. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các phương án xử lý này đã không cho kết quả chống thấm qua thân và nền đập như mong muốn.
Việc nghiên cứu tận dụng đất bồi lắng lòng hồ làm vật liệu nâng cấp đảm bảo an toàn đập ngoài ý nghĩa về mặt khoa học thực tiễn còn mang lại hiệu quả kinh tế, môi trường và xã hội cao.
GS. TS Trịnh Minh Thụ – Chủ tịch Hội đồng và các thành viên Hội đồng đánh giá LATS của NCS
Lễ bảo vệ LATS của NCS Nguyễn Đình Dũng diễn ra tại Room5/K1
Đề tài: Nghiên cứu xử lý đất bồi lắng lòng hồ vừa và nhỏ để làm vật liệu nâng cấp đập ở Hà Tĩnh, ngành: Kỹ thuật xây dựng công trình thủy của NCS Nguyễn Đình Dũng do PGS.TS. Nguyễn Cảnh Thái và TS. Nguyễn Công Thắng hướng dẫn.
Bao gồm:
1. Toàn văn luận án
2. Tóm tắt luận án (Tiếng Anh, Tiếng Việt)
3. Thông tin đóng góp mới (Tiếng Anh, Tiếng Việt)
Chi tiết: TẠI ĐÂY