Đất chết hồi sinh

ĐẤT CHẾT HỒI SINH


Nguyễn Hồng Bỉnh

 

 

Nguyên giảng viên Trường ĐH Thủy lợi, Hội KHKT Xây dựng TP Hồ Chí Minh

 Năm 1954, tập kết ra Bắc mãi đến năm 1974 tôi mới được trở về Nam và công tác tại Ban Nông nghiệp Trung ương cục Miền – Bộ phận thuỷ lợi, phụ trách khối qui hoạch, điều tra, thiết kế, thi công. Anh em trong khối trên dưới 30 người. Được đặt chân trên mảnh đất quê hương ai cũng bùi ngùi và phấn khởi vì lần đầu tiên được tham gia xây dựng công trình thuỷ lợi trong vùng giải phóng với lực lượng thi công cơ giới từ miền Bắc vào.

Cuối năm 1974, đang thi công công trình tiêu thoát nước Tà Xia, hệ thống trạm bơm Hoà Hiệp (Tân Biên) và nghiên cứu quy hoạch khảo sát thiết kế một số hồ chứa ở Lộc Ninh (Sông Bé). Tôi được lệnh Ban Nông nghiệp nhận nhiệm vụ thực hiện một số công trình thuỷ lợi khác của R theo yêu cầu của Củ Chi (T4). Anh Dương Ngọc Lâm được cử cùng đi khảo sát thực địa với tôi trong chuyến này. Tôi thân với anh Lâm từ lúc gặp ở đường Trường Sơn, cùng vào căn cứ (R). Anh là người Sài Gòn, con trai duy nhất của Bác Cả Dương Văn Khuê, tốt nghiệp Trung cấp Cơ khí Nông nghiệp tại miền Bắc và được điều về làm thuỷ lợi ở T4, vì vậy anh rất thông thạo địa hình khu này. Nhận nhiệm vụ mới, tôi vừa mừng, vừa lo, suốt đêm không sao ngủ được. Tờ mờ sáng, anh đèo tôi trên chiếc xe gắn máy, theo đường mòn len lỏi dưới các hàng cây, có đoạn cây rừng dày thì chạy lách từ từ. Qua nhiều cánh rừng, đến khu vực Dầu Tiếng, Bến Cát, Bến Súc thì trời đã tối. Lúc ấy anh mới nói với tôi: “Lúc nãy tôi chạy nhanh là vì qua khu vực Dầu Tiếng thường hay có biệt kích, tôi không dám nói sợ anh lo”.
 
Đến Củ Chi vào cuối tháng 2/1975 nơi mà tôi đã sống và tham gia chiến đấu những năm tháng kháng chiến chống Pháp (46 – 47), (24 tháng chạp âm lịch), được anh Năm nông hội dẫn về nhà nghỉ ngơi. Trong mái nhà tranh vách lá trống trải, nghèo mà đầy tình nghĩa tại ngọn suối Thai Thai, Phú Mỹ Hưng, tôi được anh Năm ưu tiên cho nằm vào góc nhà. Suốt đêm, hết ngồi lại nằm chúng tôi trao đổi bao nhiêu chuyện về đời sống, sản xuất nông nghiệp… bám trụ, chiến đấu của nhân dân Củ Chi (mặc dù thỉnh thoảng địch vẫn còn pháo kích, nhưng không ai sợ) và phác thảo kế hoạch chuyến đi khảo sát và thống nhất từng ngày để anh Năm dẫn đi thực địa.
 
Sáng sớm hôm đầu tiên, chúng tôi băng đồng đi dọc sông Sài Gòn, từ Bến Súc qua Rạch Son, Rạch Bò Cạp. Đây là những cánh đồng thấp, thường ngập nước mưa, thuỷ triều và dốc cao dần, khu triền cao thì khô hạn. Ở đây, nguồn nước phong phú, đào mương dẫn nước và đắp bờ ngăn nước theo các rạch và sông thì lấy nước vào sâu chân gò. Sáng ngày thứ hai, chúng tôi băng đồi Phú Mỹ Hưng – An Phú theo đường mòn để tránh đạp bom, mìn, hoặc mìn trái còn sót. Ở khu vực này nắng cháy da, đất trống, đồi trọc không một ngọn cỏ, đi mãi mà không thấy con suối nào có nước, còn giếng đào thì sâu trên chục mét. Cánh đồng An Phú – Phú Mỹ Hưng chỉ có thể trồng màu và cây công nghiệp, nguồn nước ngầm có lẽ ở tầng sâu. Ngày thứ ba, chúng tôi khảo sát vùng triền đất xám bạc màu xã Trung Lập Thượng. Anh Năm không đi được nên nhờ cô Tám giao liên trên đường về thành phố dẫn đường cho hai chúng tôi. Những cánh đồng ở đây mênh mông, đất triền tương đối bằng phẳng nhưng không một bóng cây, thỉnh thoảng đi qua thửa đậu phộng, thuốc lá được tưới bằng nước giếng bơm nhưng có diện tích không lớn. Thấm nắng và mệt, hai chúng tôi chọn bờ cao ngồi tựa lưng thư giãn và đàm luận: mảnh đất này như là vùng chết, những cánh đồng giống như sa mạc, đất nóng, đi muốn phỏng chân, gặp chiến tranh nên không trồng được gì, không có nước tưới, đào giếng lấy nước ngầm thì diện tích khó phát triển. Chúng tôi cùng hứa với nhau chờ khi chiến tranh chấm dứt, thống nhất đất nước sẽ cùng xây dựng nhiều công trình thuỷ lợi lớn, đưa nước sông Sài Gòn về hồi sinh đồng đất, tưới mát cỏ cây góp phần cho đời sống nhân dân sung túc… hai chúng tôi nắm chặt tay nhau cười. Mỗi chiều lội đồng về nhà, gặp từng đoàn bộ đội hành quân tiến về Sài Gòn. Tôi tự nhủ: “Mừng quá! Lần này chắc chắn ước nguyện của chúng tôi sẽ sớm thành hiện thực”.
 
Sau đợt khảo sát, chúng tôi làm báo cáo tổng hợp kết quả trình bày tiếp kế hoạch đợt 1 và chọn thời gian sau Tết sẽ tiến hành khởi công đào đắp bờ bao, kênh mương nội đồng… Tạm biệt T4, sáng 28 tháng chạp, anh Lâm chở trả tôi về rừng. Đêm chia tay chúng tôi cùng một số đồng chí chuyện trò vui vẻ, câu chuyện xoay quanh việc “sắp tiến về thành rồi…”. Tờ mờ sáng ngày 29 tháng chạp, anh trở về Củ Chi để chuẩn bị ăn cái tết đầu tiên khi về Nam như đã hứa với anh Năm và các Má. Sau khi thăm và chúc tết, anh trở về hầm trú ẩn. Nhưng đó là đêm cuối cùng anh sống với đồng đội, bởi một quả pháo địch từ Rạch Bắp – Bến Cát bắn qua, rớt ngay hầm của anh. Không một lời trăn trối. Hôm sau tin đến cả Ban Nông nghiệp miền Nam bàng hoàng, lễ truy điệu anh được tổ chức trong lặng lẽ. Mới hôm trước còn trò chuyện với anh về ước nguyện thực hiện các công trình thuỷ lợi để hồi sinh mảnh đất Củ Chi thân thương, giờ anh đã đi xa mãi mãi.

Việc tổ chức thi công sau tết năm ấy phải tạm gác lại do chuẩn bị tiến về Sài Gòn. Sau giải phóng, chỉ trong một thời gian ngắn các cán bộ thuỷ lợi trong R tập hợp đầy đủ các bộ phận chuyên môn ở Tổng cục Thuỷ lợi và được sự chi viện lực lượng của Bộ Thuỷ lợi, chúng tôi triển khai quy hoạch, khảo sát thiết kế kỹ thuật và cùng với huyện Củ Chi thi công ngay vùng thuỷ lợi ven sông Sài Gòn thuộc cánh đồng Thai Thai và Bọ Cạp. Sau đó tiếp tục nạo vét Rạch Bến Mương – Láng Le – Rạch Gia Bẹ – Bà Cả Bảy… để đưa nước sông Sài Gòn vào sâu trong nội đồng, cấp nước tướităng vụ lúa vùng thấp và đất triền. Còn trên đồi An Phú – Phú Mỹ Hưng thì được sự viện trợ của quốc tế, Sở Thuỷ lợi TP. Hồ Chí Minh đã triển khai khai thác giếng nước ngầm ở tầng sâu để cung cấp nước tưới hoa màu, cây công nghiệp cho gần 500 ha và cấp nước sinh hoạt cho nhân dân ở vùng triền gò xã Trung Lập Thượng, Phước Hiệp, Tân Phú Trung (là những vùng không có nguồn nước mặt)… Qua khảo sát thăm dò nước ngầm tầng nông, Sở Thuỷ lợi đã hướng dẫn và khuyến cáo nhân dân nên khai thác tầng nước ngầm sâu 30 – 40 m bằng giếng thủ công thọc mội và cụm giếng bán công nhiệp để có nước tưới rau màu, cây công nghiệp… bước đầu mang lại hiệu quả khả quan, năng suất sản lượng đều tăng, nhưng diện tích vẫn bị giới hạn vì nguồn nước.

 Sau vài năm, vùng đất triền gò và vùng đất đồi cao Củ Chi đã có nước tưới, nhìn vùng đất bạc màu ngày xưa đã phủ đầy màu xanh, tôi chợt bồi hồi nhớ đến anh và ước nguyện ngày nào, thầm hứa với anh sẽ triển khai nhiều hơn nữa các công trình thuỷ lợi để hồi sinh vùng đất Củ Chi vùng đất thép thành đồng.

 Khi Bộ Thuỷ lợi tiến hành xây dựng Hồ Dầu Tiếng, ngăn sông Sài Gòn, năm 1984 hoàn thành cơ bản các công trình đầu mối và các kênh Tây, kênh Đông (đi qua Trảng Bàng – Tây Ninh đến gần địa phận Củ Chi). Trước nhu cầu bức thiết về nước Củ Chi và Hóc Môn, Bộ Thuỷ lợi chấp thuận đưa 11 xã thuộc huyện Củ Chi vào Dự án quy hoạch kế hoạch xây dựng thủy lợi và cùng với Thành uỷ, UBND TP. Hồ Chí Minh trình Chính phủ phê duyệt không ít khó khăn, trong khi các cống điều tiết kênh Đông đã xây dựng xong theo thiết kế ban đầu với lưu lượng nhỏ, diện tích tưới giới hạn đến Trảng Bàng, Tây Ninh. Nay phải mở rộng thêm để tưới cho gần 15.000 ha đất canh tác ở Củ Chi và tăng lưu lượng thêm 18,5 m /s. Nếu kênh đất thì có thể mở rộng kéo dài nhưng các cống bằng bê tông thì không thể phá vỡ, trong quá trình quản lý vận hành cống điều tiết cũng phải chặt chẽ thì mới đảm bảo nhu cầu nước của thành phố. Ý tưởng thì rất tốt nhưng trong quá trình nghiên cứu thông qua phương án thì không dễ. Một số cán bộ kỹ thuật, nhiều cụ già ở địa phương không tin có thể đưa được nước từ Dầu Tiếng về được Củ Chi, nếu nước đến được Củ Chi thì sẽ “đi bằng đầu”, hoặc “nước kênh Đông tưới đậu phộng có trái thì để trên lưng tao mà nấu”.

Khi Dự án được Chính phủ phê duyệt, ngày 05/02/1985 thành phố và Bộ Thuỷ lợi đã tổ chức lễ ra quân rầm rộ, đồng chí Nguyễn Văn Linh (Bí thư Thành uỷ lúc bấy giờ) cùng lãnh đạo Bộ Thuỷ lợi bổ nhát cuốc đầu tiên trên kênh Chính Đông. Các lực lượng thi công rầm rộ toả ra các tuyến kênh trên đồng ruộng, ngày đêm hăng say lao động xây dựng để tỏ lòng tri ân và đền ơn đáp nghĩa những người đã sống, chiến đấu và hy sinh trên quê hương “đất thép thành đồng”. Trong vòng 10 tháng đã thi công hoàn thành kênh Chính Đông dài 10 km và các kênh nhánh N25, N38, N46 và một số kênh cấp 3, 4 dẫn nước, tạo nguồn phục vụ gần 6.000 ha đất canh tác trong đó gần 1.000 ha tại hợp tác xã Nguyễn Thị Rãnh, xã Phước Hiệp có nước tưới đến tận chân cây trồng.

Ngày 05/12/1985, thành phố, Bộ Thuỷ lợi và nhân dân Củ Chi tổ chức long trọng “lễ rước nước” từ Dầu Tiếng về tại cống đầu mối Xóm Bàng, Trung Lập Thượng. Không thể kể xiết nỗi vui mừng của bà con nơi đây hoà trong niềm vui chung đó là sự mãn nguyện của những người đã hy sinh trên mảnh đất này, trong đó có người bạn của tôi, liệt sĩ Dương Ngọc Lâm.

Sau 10 năm xây dựng hệ thống thuỷ lợi (từ 1985 – 1995), nguồn nước mát của sông Sài Gòn và Dầu Tiếng đã tuôn chảy khắp 11 xã ở huyện Củ Chi, tưới mát cho gần 15.000 ha, tạo nguồn sống cho lúa, hoa màu, vườn cây ăn trái, tắm mát gia súc, gia cầm, góp phần cải tạo đất, tăng lượng nước ngầm phát triển giao thông nông thôn, xóm làng đổi mới, đời sống kinh tế – xã hội ngày càng nâng cao, đồng thời tạo nguồn nước ngọt cho TP. Hồ Chí Minh. Kể từ năm 2002, hệ thống thuỷ lợi Kênh Đông không còn là kênh mương đất nữa mà kiên cố bằng bê-tông, toàn bộ hệ thống được hiện đại hoá để chủ động trong việc điều tiết nước qua các cống vào từng cánh đồng.

 

Trích từ ấn phẩm: Từ mái trường đến những dòng sông, tập thơ văn của nhiều tác giả là các thầy, cô giáo, sinh viên, cựu sinh viên Trường Đại học Thủy lợi