( Phỏng vấn GS.TS Trương Đình Dụ, chủ trì nhóm tác giả của Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam vừa đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh cho công trình mang tên: “ Cụm công trình ngăn sông bằng Đập Trụ đỡ và Đập Xà lan di động ”)

GS Trương Đình Dụ (trái) và PV
PV: Thưa GS. TS Trương Đình Dụ! Được biết ông là một trong 8 tác giả của Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam vừa được Nhà nước trao tặng phần thưởng cao quý: Giải thưởng Hồ chí Minh cho cụm công trình ngăn sông bằng đập Trụ đỡ và Đập Xà lan di động. Đây, có thể nói là món quà đầy ý nghĩa, vô cùng quý giá không chỉ đối với ông và cộng sự mà còn đối với cả ngànhThuỷ lợi Việt
GS.TS Trương Đình Dụ:
Trước hết xin chân thành cảm ơn báo Tài nguyên nước đã quan tâm và giành thời gian phỏng vấn để tuyên truyền Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và công nghệ mà chúng tôi vừa đạt được.
Tôi rất cảm động, vinh dự và tự hào khi tôi và các cộng sự được giải thưởng mang tên Bác, Giải thưởng Hồ Chí Minh về KHCN là phần thưởng cao nhất của nước ta về sáng tạo khoa học công nghệ.Tôi rất vui mừng vì mấy điều sau đây: Một là, khi làm hồ sơ đăng ký xét giải thưởng mới thấy rõ giải thưởng Hồ Chí Minh là đỉnh cao nhất về KHCN và hết sức cao quý, đạt được là rất khó, vì với những tiêu chuẩn rất đặc biệt: Sáng tạo khoa học phải đặc biệt xuất sắc, đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội phải đặc biệt quan trọng và có tầm quốc tế về khoa học công nghệ. Hai là, tôi đã phần nào đền đáp được công ơn cách mạng đã đưa lại cho tôi, vì tôi là người xuất thân từ nông dân nghèo, nhờ có cách mạng mới được đến trường để biết chữ rồi được học lên trung học, đại học và sau đó được cử đi nghiên cứu sinh ở Liên Xô cũ, làm luận án phó tiến sỹ,và sau đó tôi đã làm nghiên cứu khoa học suốt cả cuộc đời ở viện Khoa học Thủy lợi. Lúc ấy tôi chỉ có ý nghĩ là phải nghiên cứu được cái gì để áp dụng có hiệu quả cho sản xuất. Mà bây giờ rất sung sướng đã vượt được ước mơ đó. Ba là, đã thành công trong chọn hướng nghiên cứu: Bám sản xuất trước mắt và phục vụ sản xuất lâu dài. Nhờ suy nghĩ như vậy, nên sau ngày giải phóng Miền Nam tôi tập trung nghiên cứu cửa van tự động cống vùng triều là vấn đề cấp bách lúc đó và đã tìm ra cửa van cánh cửa tự động thủy lực hoàn toàn mới ở nước ta cũng như trên thế giới, được ứng dụng rộng rãi ở đồng bằng sông Cửu Long và năm 2000 tôi và anh Trần Tuấn Bửu đã được tặng giải thưởng nhà nước về KHNN loại cửa van đó.Tiếp đến tôi chọn hướng phục vụ sản xuất lâu dài là công nghệ xây dựng cống ngăn sông vùng ven biển. Bốn là, tôi vui mừng vì đã kiên trì chịu khó đi sâu, không nản chí khi gặp nhiều trở ngại trong nghiên cứu đề tài để có kết quả đặc biệt xuất sắc về lý thuyết và vượt nhiều khó khăn trong ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất để có đóng góp đặc biệt quan trọng về kinh tế xã hội. Năm là, tôi vui mừng là đã tạo ra một trường phái khoa học công nghệ về xây dựng công trình ngăn sông kiểu mới đập trụ đỡ và đập xà lan, gồm nhiều cán bộ tâm huyết trong một trung tâm 70 người thuộc Viện Thủy công để nghiên cứu, thiết kế, phổ biến chuyển giao và thi công ứng dụng vào sản xuất.
PV: Ngành Thuỷ lợi có rất nhiều lĩnh vực hoạt động, nhiều vấn đề cần quan tâm. Vậy tại sao ông lại chọn công trình này để nghiên cứu?
GS.TS Trương Đình Dụ:
Đúng, ngành thủy lợi có nhiều lĩnh vực và nhiều vấn đề cần quan tâm, nhưng tôi chọn công trình ngăn sông vùng ven biển để nghiên cứu là vì những lý do như sau: Thứ nhất là từ những năm 80 thế kỷ trước sau khi đi sâu vào đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) tôi thấy đây là nơi quan trọng của đất nước, nơi cần công tác thủy lợi nhất và thủy lợi phải tập trung nghiên cứu nhiều vấn đề. Nhưng ba vấn đề quan trọng nhất là kênh dẫn nước, cống ngăn triều giữ ngọt và cải tạo đất. Nghiên cứu thiết kế kênh tuy cũng phức tạp về tính toán quy hoạch, đào kênh vùng đất yếu, nhưng không phức tạp bằng xây dựng cống. Và thực tế việc xây dựng các cống ở ĐBSCL gặp nhiều khó khăn. Quả vậy việc xây dựng cống đòi hỏi kiến thức tổng hợp: nghiên cứu tính thủy văn thủy lực, tính nền móng, tính thiết bị đóng mở và tinh toán kết cấu công trình. Còn vấn đề cải tạo đất cũng quan trọng, nhưng là hệ quả của hai vấn đề trên. Lúc đó chỉ có các công ty tư vấn thiết kế cống theo quy trình quy phạm và theo sách đã dạy. Có thể nói nhiều kết cấu cống trên nền đất yếu bất hợp lý nhưng không ai có thể cải tiến vì chưa có kết quả nghiên cứu. Đang trăn trở, băn khoăn với những bất hợp lý của kết cấu truyền thống cho những cống nhỏ và vừa thì điều trăn trở nữa lại đến.
Điều thứ hai, bắt đầu từ năm 1990, trong quá trình tìm hiểu về chương trình cân bằng nguồn nước Quốc gia, tôi biết được rằng các đồng bằng ven biển, nhất là ĐBSCL sẽ thiếu nguồn nước nghiêm trọng do các nước thượng nguồn phát triển kinh tế sẽ dùng hết nguồn nước tự nhiên, ví dụ như Thái lan khai thác 4 triệu ha đất vùng đông bắc, Căm Pu Chia sử dụng nước biển Hồ. v.v và thiếu nước do thảm thực vật bị suy thoái. Từ suy nghĩ này tôi đã có ý tưởng là ở đồng bằng ven biển phải tạo các “hồ chứa” bằng cách ngăn các cửa sông lớn để tr ữ nước ngọt và chống xâm nhập mặn thì ta mới đủ nước để phát triển sản xuất. Nhưng muốn xây dựng các cống ngăn các sông lớn thì công nghệ cống truyền thống không đáp ứng được, nên phải nghiên cứu công nghệ mới… Vài năm gần đây các thông tin về biến đổi khí hậu và nước biển dâng thì công nghệ mới về ngăn sông vùng ven biển lại càng có ý nghĩa lớn trong sự nghiệp thủy lợi phục vụ phát triển kinh tế – xã hội trong tình hình mới phức tạp.
PV: Tôi được biết, giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước về khoa học công nghệ là giải thưởng cao quý được trao tặng 5 năm một lần. “Cụm công trình ngăn sông bằng Đập Trụ đỡ và Đập xà lan di động” rõ ràng là công trình KHCN đặc biệt xuất sắc. Đặc biệt, đối với ngành Thuỷ lợi Việt Nam, đây là công trình đầu tiên, những nhà khoa học đầu tiên được Đảng và Nhà nước công nhận, tôn vinh đối với một giải thưởng có giá trị cao, mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội thiết thực.Vậy xin ông cho biết nội dung cơ bản, ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn của công trình?
GS.TS Trương Đình Dụ:
Để dễ thấy rõ tính mới đặc biệt của công trình, trước hết tôi xin nêu vài nét về công nghệ cống truyền thống: Cống truyền thống làm việc theo ba nguyên lý:
Ổn định chống trượt theo nguyên lý ma sát, tức là trọng lượng cống nhân với hệ số ma sát của nền sinh ra lực chống trượt, nên thường gọi là nguyên lý trọng lực, nghĩa là càng nặng thì càng dễ ổn định. Ổn định chống thấm theo nguyên lý đường viền ngang dưới đáy cống, tức là chống thấm nhờ sự kín khít giữa đáy và nền. _ Chống xói nhờ bản đáy, sân tiêu năng và sân phủ nối tiếp thượng hạ lưu. Để thực hiện ba nguyên lý này, kết cấu cống phải có bản đáy, sân tiêu năng và sân phủ. Trên bản bản đáy xây các trụ pin và giữa các trụ pin lắp đặt các cửa van. Kiểu cống này đã có hàng ngàn năm nay, phổ biến khắp trên thế giới bằng các giáo trình và quy trình quy phạm. Cống truyền thống có ưu điểm là: Bản đáy kết hợp được luôn ba việc: chống trượt, chống thấm và chống xói trong cống; kết cấu vững chắc; dễ kiểm tra trong thi công. Nhưng nhược điểm cơ bản của cống truyền thống là tất cả kết cấu cống phải thi công trong hố móng khô và rộng. Đối với cống nhỏ thì ít gặp khó khăn, nhưng đối cống trên sông lớn sâu và rộng thì việc làm khô hố móng rất phức tạp thường có hai cách: Thứ nhất là làm cống trên bãi bờ lồi ở đoạn sông cong, rồi đắp đập ngăn sông và đào kênh nối sông với cống, cách này tốn nhiêu đất xây dựng, tổn hại đến cảnh quan môi trường tự nhiên và giá thành cao; cách thứ hai là làm đê quai vây từng phân đoạn ở lòng sông để thi công móng. Cách này gặp nhiều khó khăn trong thi công khung vây rộng, thường không có tính khả thi, vả lại giá thành rất cao.
Nội dung cơ bản của cụm công trình này là tìm ra kiểu cống mới có nguyên lý làm việc phù hợp với công nghệ xây dựng cống dưới lòng sông, để không phải làm hố móng rộng như cống truyền thống. Từ năm 1992 –1995 trong đề tài KC-12-10a tôi đã tìm ra nguyên lý đập trụ đỡ và đập xà lan.
Đập trụ đỡ có ba nguyên lý làm việc như sau: – Chống trượt theo nguyên lý ngàm, từng trụ riêng biệt được ngàm vào nền bằng hệ cọc, nhờ vậy có thể thi công từng trụ trong khung vây hẹp giữa sông.( Thực chất khi xây dựng cống truyền thống ở vùng đất yếu đã phải làm hệ cọc dưới bản đáy là cũng một phần đã theo nguyên lý ngàm). – Chống thấm theo nguyên lý đường viền đứng bằng tường cừ cắm vào nền, cũng là kết cấu dễ thi công ngay trong dòng chảy; – Chống xói theo nguyên lý mở rộng cống để có lưu tốc qua cống nhỏ hơn lưu tốc cho phép của đất nền, nên chỉ cần gia cố bằng thảm đá là vật liệu dễ thi công trong dòng chảy. Như vậy, nguyên lý làm việc của đập trụ đỡ khác hoàn toàn cống truyền thống. Ba nguyên lý cơ bản này làm cho việc thi công những kết cấu chính của đập trụ đỡ ( trụ chịu lực, tường chống thấm và thảm đá chống xói) được tiến hành giữa dòng sộng một cách dễ dàng. Nói cách khác, ba nguyên lý này tạo công nghệ thi công đập trụ đỡ giữa dòng sông.
Đập xà lan làm việc theo các nguyên lý cơ bản sau: – Sử dụng hai nguyên lý của cống truyền thống là Nguyên lý chống trượt nhờ lực ma sát của đáy cống và nền, cộng thêm gờ tựa của thảm đá chống xói thượng hạ lưu và nguyên lý chống thấm theo đường viền ngang; đồng thời sử dụng ba nguyên lý mới là: + Nguyên lý nổi Acsimet, đập có thể nổi chìm để chế tạo trong hố đúc, rồi di dời và hạ chìm vào hố móng đã chuẩn bị sẵn. + Nguyên lý chống lún bằng cách giảm ứng suất của đập lên nền nhỏ hơn sức chiụ của nền và phân bố đều để đặt cống trên nền yếu không xử lý hoặc xử lý nhẹ mà không bị lún. + Nguyên lý chống xói tương tự như đập trụ đỡ là mở rộng cống để có lưu tốc qua cống nhỏ hơn lưu tốc gây xói của đất nền, nên chỉ cần thả thảm đá trước và sau cống…
Năm nguyên lý trên cho ta thiết kế và thi công các kết cấu chính như trụ pin, bản đáy, trụ pin, cửa van, .v.v của một hoặc nhiều cống trong hố đúc sẵn rồi làm nổi, lai dắt đến vị trí xây dựng công trình đã chuẩn bị sẵn để đánh đắm trong hố móng dưới sông đã chuẩn bị sẵn, sau đó thả thảm đá chống xói thượng hạ lưu và thi công các hạng mục phụ kèm theo ta được công trình làm nhiệm vụ ngăn triều, giữ ngọt và tháo lũ và gọi loại cống này là đập xà lan.
Ý nghĩa khoa học thứ nhất của cụm công trình là tìm những nguyên lý mới về chống trượt, chống thấm và chống xói để tạo ra kiểu cống mới đập trụ đỡ được thi công trong dòng chảy bằng công nghệ mới đạt hiệu quả cao về mọi măt thay cho công nghệ thi công cống truyền thống trong hố móng khô có nhiều tồn tại. Còn ý nghĩa khoa học thứ hai của cụm công trình là tìm ra ba nguyên lý mới về tính nổi, ứng suất nhỏ và chống xói cùng với sử dụng hai nguyên lý chống trượt và chống thấm của cống truyền thống để có kiểu cống mới đập xà lan, được thi công theo công nghệ mới trong dòng chảy đạt hiệu quả rất cao về mọi mặt so với cống truyền thống. Như vậy, ý nghĩa khoa học xuất sắc của cụm công trình là đã tìm ra những nguyên lý mới cơ bản và những công nghệ thi công mới để tạo ra những kiểu cống mới có nhiều ưu điểm nổi bật mà cống truyền thống không thể có được.
Về giá trị thực tiễn của cụm công trình, thứ nhất đáp ứng được yêu cầu bức bách của sản xuất: Đập trụ đỡ đã, đang và sẽ đáp ứng một yêu cầu bức bách về xây dựng các công trình ngăn sông lớn vùng ven biển mà công nghệ cống truyền thống không đáp ứng được. Đập xà lan đã, đang và sẽ đáp ứng một yêu cầu bức bách mà các kiểu cống khác không thể thực hiện được là có thể di dời cống đến một vị trí mới do cơ cấu sản xuât thay đổi và có thể xây dựng cống ở giữa vùng dân cư dày đặc.
Thứ hai đạt hiệu quả kinh tế kỹ thuật cao, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội ở những điểm sau:
+Một là đảm bảo cảnh quan môi trường sinh thái tự nhiên của dòng sông trong quản lý khai thác cũng như trong khi xây dựng công trình.
+ Hai là khối lượng công trình giảm nhiều nên tiết kiệm được vậy liệu xây dựng
+ Ba là thời gian thi công được rút ngắn khoảng 30% so với cống truyền thống.
+ Bốn là giảm khoảng 80% khối lượng đền bù giải phóng mặt bằng so với phương án cống đặt trên bờ.
+ Năm là vốn đầu tư có thể giảm được 25 đến 40% so với phương án truyến thống.
Ví dụ cống Mương Chuối trong dự án chống ngập khu vực tp Hồ Chí Minh nếu làm kiểu đập trụ đỡ dưới sông giảm được 700 tỷ đồng so với phương án truyền thống đặt trên bờ.
Riêng đập xà lan còn có ưu điểm nổi bật là khi ở vị trí cũ không cần cống nữa do thay đổi cơ cấu sản xuất thì có thể di dời cống đến vị trí xây dựng mới. Điều mà không kiểu cống nào thưc hiện được.
PV: Là đồng nghiệp, cũng là người làm công tác quản lý, gắn bó nhiều năm trong ngành, tôi hiểu những khó khăn, rào cản về pháp lý cũng như trong cuộc sống thường nhật, trong quá trình nghiên cứu, thực hiện công trình này. Giáo sư có thể chia sẻ với bạn đọc Tài nguyên nước?
GS.TS Trương Đình Dụ:
Đúng! Anh là đồng nghiệp trong ngành thủy lợi làm công tác quản lý xây dựng cơ bản trong nhiều năm nên anh đã hiểu khó khăn của quá trình nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất.Tôi chỉ xin chia sẻ thêm vài điểm cụ thể để minh họa cho câu hỏi. Thứ nhất, kinh phí đề tài khoa học thời kỳ thập niên 80,90 của thế kỷ trước là rất ít, không đủ trang trải cho nhóm nghiên cứu. Đề tài KC-12-10a do tôi làm chủ nhiệm và 6 cộng sự trong ba năm chỉ được 60 triệu. Trong khi đó cán bộ làm hợp đồng kinh tế thu nhập rất khá, nên những kỹ sư trẻ mới ra trường tuy còn nghèo nhưng có tâm huyết mới kiên trì theo đề tài. Lúc đó tôi phải chia sẻ với các cộng sự từng đồng và động viện họ nhìn vào tương lai để vượt khó khăn trước mắt, khi kết quả chưa được ứng dụng. Nhưng thực ra khi được ứng dụng thử nghiệm ở cống Sông Cui (Long An), rồi đến thiết kế cống Hiền Lương (Quảng Ngãi), kể cả cho đến khi được thiết kế đập Thảo Long, tuy đời sống của nhóm nghiên cứu có được nâng lên nhưng v ẫn thấp hơn mặt bằng xung quanh Viện, vì thiết kế phí của những công trình này đã giảm đi gần một nửa do chi phí xây lắp giảm và lại phải đầu tư kinh phí chuyển giao. Giảm thu nhập chỉ là phần nhỏ, những thiệt thòi về việc riêng do tập trung cho nghiên cứu của từng cá thể mới là đáng kể. Điều tôi buồn nhất hiện nay là bạn bè, người thân cứ tưởng tôi giàu lắm vì thấy làm nhiều công trình nhưng thực tế thu nhập của tôi rất bình thường, vì làm nhiều nhưng ứng dụng để thu kinh phí được ít và chủ yếu dành cho phát triển. Điều này những cộng sự gần gũi của tôi hiểu rất rõ.
Thứ hai, tính mới của đập trụ đỡ và đập xà lan làm cho nhiều người không tin vào kết quả đề tài được ứng dụng vì chúng có nguyên lý làm việc hoàn toàn khác với cống truyền thống có trong sách giáo khoa và quy trình quy phạm đang tồn tại ở nước ta và trên thế giới. Đây cũng là một trở ngại rất lớn.
Thứ ba là rào cản pháp lý: Trong luật quản lý nhà nước về xây dựng công trình không có điều nào bắt buộc phải áp dụng tiến bộ kỹ thuật, mà chỉ bắt buộc phải theo đúng quy trình quy phạm đã có. Vì vậy, nếu người lãnh đạo ngành tuân thủ luật nước không cho ứng dụng kết quả nghiên cứu vào xây dựng công trình cũng không sai, không trách họ được. Rào cản pháp lý là trở ngại nhất cho ứng dụng kết quả nghiên cứu. Nhưng đập trụ đỡ vượt rào cản đó ở đập Thảo Long ( Thừa Thiên Huế) là nhờ lúc đó Bộ cho nhiều đơn vị tham gia thiết kế các phương án để so chọn, trong đó có phương án của công ty Xaphe (Pháp). Bộ đã lập tổ chuyên gia để chấm điểm. Phương án đập trụ đỡ đã được chọn vì nó có nhiều ưu điểm vượt trội mà các phương án theo công nghệ truyền thống của các đơn vị khác không thể so được. Việc tháo gỡ rào cản pháp lý này trước hết là ở người phụ trách kỹ thuật của Bộ có dám thực hiện không. May mắn cho công nghệ đập trụ đỡ là lúc đó GSTSKH Phạm Hồng Giang làm Thứ trưởng, đã chủ trương cho ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong xây dựng công trình để nâng cao hiệu quả đầu tư. Từ chủ trương đó anh Phạm Hồng Giang đã cho thử nghiệm đầy đủ ở cống sông Cui (Long An) năm 1998 để rút kinh nghiệm cho công trình Thảo Long.
Số phận của đập xà lan cũng vậy, nghiên cứu từ 1995, mời chào ứng dụng nhiều nơi chưa được, nhưng khi vào tỉnh Bạc Liêu báo cáo, Anh Nguyễn Trường Giang lúc đó là phó chủ tịch tỉnh kết luận:” Đây rồi, đập kiểu này là cứu cánh của chúng tôi, vì hiện nay chúng tôi có kinh phí nhưng không dám xây cống, vì xây xong vài ba năm lại đập phá tốn kém, lảng phí”, và ngay sau đó Anh Nguyến Trường Giang đã phê duyệt xây dựng hai cống đập xà lan là Phước Long và Thông Lưu. Ở đây, tôi muốn nói rằng dù kết quả nghiên cứu có tốt đi mấy nữa nhưng nếu người lãnh đạo sợ phạm luật, sợ trách nhiệm, không dám phê duyệt thì không thể ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất.
Thứ tư là rào cản kinh tế của việc ứng dụng: Khi ứng dụng kết quả nghiên cứu đập trụ đỡ, đập xà lan vào thiết kế công trình thì tổng mức đầu tư giảm khoảng 30 -40%, đưa lại hiệu quả lớn cho đất nước, nhưng điều trớ trêu lại xẩy ra là thu nhập của người thiết kế, người thi công và người quản lý xây dựng công trình lại giảm đi tương ứng. Do vậy trừ người nghiên cứu ra, người thi công và quản lý xây dựng thường không nhiệt tình ứng dụng kết quả nghiên cứu vì vừa tăng thêm khó khăn trong công việc lại bị giảm thu nhập…
Có những rào cản lớn như vậy, nên đập trụ đỡ và đập xà lan chỉ được ứng dụng vào những công trình có điều kiện: + Hoặc chủ đầu tư không đủ kinh phí để xây dựng công trình theo kiểu truyền thống, ví dụ cống Hiền Lương (Quảng Ngãi) nên đồng ý xây dựng cống theo kiểu đập trụ đỡ; hoặc xây dựng cống theo kiểu truyền thống quá tốn kém vì quá nhiều khó khăn, ví dụ cống Thảo Long (Thừa Thiên Huế) và nhiều cống lớn đang thiết kế ở dự án chống ngập úng khu vực tp Hồ Chí Minh; hoặc những nơi không thể ứng dụng cống truyền thống mà phải ứng dụng đập xà lan để có thể di dời, như các cống ở vùng phân ranh mặn ngọt; hoặc những nơi không giải phóng được mặt bằng để xây dựng cống truyền thống; hoặc những nơi nếu xây dựng cống truyền thống thì không kịp tiến độ để thanh toán như 7 cống thuộc dự án Ômôn –Xà no. Ở đây phải cảm ơn anh Phạm Hùng Cường, phụ trách WB đã mạnh dạn cho ứng dụng công nghệ mới đập xà lan vào dự án vốn nước ngoài… Những rào cản trên đây trực tiếp gây cản trở cho việc ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Nghĩa là những nơi có nhiều vốn và thi công được theo công nghệ truyền thống thì họ không mặn mà ứng dụng công nghệ đập trụ đỡ và đập xà lan.
PV: Nhân giải thưởng cao quý mà ông và các công sự vừa được Đảng và Nhà nước tôn vinh, tôi nghĩ rằng: Thuỷ lợi luôn là nhịp cầu mang khát vọngchân chính của các nhà khoa học đến vinh quang. Lẽ đương nhiên, để có được “vòng nguyệt quế”lung linh này, ông và các nhà khoa học trẻ trong nhóm tác giả đã dồn hết tâm huyết, trí tuệ và sức lực của mình trong nhiều năm qua. Nói sâu hơn và tổng quát hơn, nếu có thể đúc kết lại sự thành công qua giải thưởng cao quý này, ông có thể rút ra những bài học gì?
GS.TS Trương Đình Dụ:
Khi làm đề tài này tôi và các cộng sự chỉ biết dồn hết tâm huyết, năng lực của mình, kiên trì, vượt mọi khó khăn trong hơn 20 năm với kỳ vọng sẽ đưa được kết quả nghiên cứu vào sản xuất có hiệu quả. Lúc đó, năm 1992 chúng tôi chưa nghĩ rằng sau này sẽ được giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhưng bây giờ khi làm hồ sơ xét giải thưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực khoa học công nghệ ứng dụng, tôi biết được rằng giải thưởng Hồ Chí Minh là đỉnh cao nhất của khoa học công nghệ, phải đạt được tiêu chuẩn đặc biệt xuất sắc về khoa học công nghệ và có đóng góp đặc biệt quan trọng cho nền kinh tế quốc dân. Quá trình phấn đấu trong chặng đường làm khoa học vừa qua cho tôi rút ra những bài học sau:
-Thứ nhất, phải có định hướng khoa học có tầm chiến lược, để giải quyết những vấn đề cơ bản có ảnh hưởng rõ ràng tới cả vùng rộng lớn của Quốc gia, hoặc giải quyết những vấn đề khoa học về công trình có tính tổng hợp, phục vụ cho cả vùng rộng lớn và dẫn đến thay đổi công nghệ xây dựng, mang lại hiệu quả lớn cho kinh tế xã hội thì kết quả nghiên cứu mới có giá trị đặc biệt.
-Thứ hai phải có ý chí phấn đấu, tâm huyết và kiên trì và phải hy sinh tất cả cho hướng đi đã chọn.
-Thứ ba phải có lãnh đạo ngành dám chịu trách nhiệm ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học dù chưa có quy phạm được ban hành. Đây là điều kiện hết sức quan trọng về những kết quả nghiên cứu công trình công ích như thủy lợi. Lãnh đạo ngành là quản lý nhà nước thường chỉ muốn duyệt theo quy trình, quy phạm cho yên ổn. Họ không thích duyệt những công trình kiểu mới, có thể gây rủi ro. Họ không duyệt cũng không ai trách được họ, vì họ làm đúng luật.Vì vậy, nếu như chúng tôi không gặp Thứ trưởng Phạm Hồng Giang thì chắc gì đập trụ đỡ đã kịp ra đời sớm. Nếu không có anh Nguyễn Trường Giang nguyên phó chủ tịch tỉnh Bạc Liêu mạnh dạn duyệt cho làm đập xà lan đầu tiên thì chắc gì hiện nay đã có đập xà lan ứng dụng rộng rãi.
-Thứ tư phải có một đội ngũ cán bộ vừa khá chuyên môn, vừa tâm huyết, kiên trì và chịu đựng hy sinh sẵn sang đi theo hướng đã chọn. Người chủ trì phải gương mẫu, có tâm đối xử tốt với cộng sự, phải bao dung, đề cao dân chủ trong khoa học, phải nâng họ lên để họ yên tâm làm việc, theo hướng đã vạch. Ví dụ như trong giải thưởng Hồ Chí Minh tôi có thể ghi họ là cộng sự vì những nguyên lý là do tôi tìm ra và chỉ đạo ứng dụng, nhưng tôi ghi họ là đồng tác giả để anh em trẻ, thời gian làm việc còn dài, phấn khởi và có trách nhiệm tiếp tục phát triển tốt hơn nữa định hướng công trình ngăn sông mà đất nước đang rất cần trong điều kiện nước biển dâng và biến đổi khí hậu.
PV: Tôi được biết, nhóm Tác giả được giải lần này, ngoài ông ra, còn lại là các tác giả trẻ, rất trẻ, gồm: PGS.TS Trần Đình Hoà, ThS Trần Văn Thái, ThS Thái Quốc Hiền, ThS Trần Minh Thái, TS V ũ Hồng Sơn, ThS Nguyễn Thế Nam và ThS Phan Đình Tuấn. Trong nhóm tác giả được giải, ông là người cao tuổi nhất, là”cây đa”, là “Trụ đỡ”cho công trình. Vậy ông muốn nói điều gì với các cộng sự – các nhà khoa học trẻ đầy nhiệt huyết và tài năng ấy?
GS.TS Trương Đình Dụ:
Là người đề ra hướng nghiên cứu, tìm ra những nguyên lý cho đập trụ đỡ và đập xà lan và chỉ đạo ứng dụng thực tế, tôi thấy cần tâm sự với các cộng sự mấy điều: Điều thứ nhất, mong các bạn phấn đấu để củng cố và phát triển lực lượng nghiên cứu và ứng dụng ở Trung tâm Công trình đồng bằng ven biển và Đê điều, nơi ra đời cụm công trình này, hiện có nhiều kỹ sư trẻ khá triển vọng, đang thiêt kế nhiều công trình ngăn sông lớn, và phấn đấu để xây dựng Trung tâm này trở thành một đơn vị lớn xứng với tầm phát triển công nghệ ngăn sông vùng ven biển nước ta trong tình hình biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Điều thứ hai, mong các bạn tiếp tục giữ ngọn lửa nhiệt tình với hướng công nghệ ngăn sông mới đã hình thành, vượt khó khăn trước mắt để nghiên cứu, sáng tạo nhằm phát triển công nghệ ngăn sông ở nước ta lên đỉnh cao mới nữa. Điều thứ ba, mong các bạn giữ phẩm chất cần thiết đầu tiên của người làm khoa học là khiêm tốn và trung thực, hãy tự xét mình vừa qua đã đóng góp được gì cho cụm công trình và sắp tới sẽ phấn đấu như thế nào để không ngừng, nâng cao uy tín của giải thưởng. Tôi nói như vậy vì tôi cho rằng được giải thưởng là đỉnh cao, nhưng không có nghĩa là dừng lại ở đó mà trách nhiệm của tôi và các bạn là phải tiếp tục hoàn thiện, nâng cao làm cho cụm công trình này hấp dẫn hơn nữa, lung linh hơn nữa để xứng với giải thưởng mang tên Bác Hồ vĩ đại…
PV: Thế còn đối với các cơ quan quản lý, các nhà lãnh đạo của ngành Nông nghiệp &PTNT… và cả chúng tôi nữa, ông muốn gửi gắm điều gì?
GS.TS Trương Đình Dụ:
Nhân dịp này, tôi xin thay mặt nhóm tác giả bày tỏ lòng biết ơn lãnh đạo Bộ NN&PTNT, Bộ KHCN, các cơ quan quản lý của hai Bộ và UBND tỉnh Bạc Liêu đã tạo điều kiện để Đập trụ đỡ và Đập xà lan được nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng rỗng rãi vào sản xuất có hiệu quả cao. Năm ngoái tôi đề nghị với Bộ trưởng Cao Đức Phát cho hội thảo để có thể đưa cống Mương Chuối từ trên bờ xuống sông sẽ tiết kiệm ít nhất 700 tỷ đồng. Tôi rất cảm động khi nghe Bộ trưởng nói:” Tôi ngồi đây có trách nhiệm là làm gi có lợi cho đất nước, tôi sẽ cho hội thảo.” Và điều mừng là sau khi hội thảo Bộ đã cho điều chỉnh dự án cống Mương Chuối xuống dưới lòng sông. Qua câu chuyện này tôi tin rằng những tiến bộ kỹ thuật, những kết quả nghiên cứu có hiệu quả sẽ được Bộ mạnh dạn cho áp dụng vào sản xuất nhanh hơn và nhiều hơn. Nhân đây, xin kính đề nghị với Bộ cho Trung tâm Công trình Đồng bằng ven biển và Đê điều phát triển thành một đơn vị đủ tầm để nghiên cứu công trình vùng ven biển trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Cũng nhân dịp này xin gửi lời cảm ơn chân thành đến nhiều bạn bè, đồng nghiệp, đã luôn động viên khích lệ chúng tôi vươn lên khi gặp khó khăn trong quá trình nghiên cứu khoa hoc và ứng dụng vào thực tế …
Nhân được phát biểu trên báo Tài nguyên nước là tiếng nói riêng, là linh hồn của Ngành Thủy lợi Việt Nam, tôi chúc cho Báo của chúng ta sẽ phát triển mạnh hơn, ra nhiều số hơn để có điều kiện dành nhiều hơn cho các bài về tiến bộ kỹ thuật và kết quả nghiên cứu, nhằm tuyên truyền phổ biến kịp thời cho sự nghiệp thủy lợi với vai trò đặc biệt quan trọng trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
PV: Xin cảm ơn GS.TS Trương Đình Dụ. Chúc ông và các cộng sự luôn phát huy trí tuệ, lòng nhiệt tình, sức mạnh đoàn kết, gặt hái được nhiều” mùa vàng” hơn nữa, mang lại vinh quang cho ngành Thuỷ lợi Việt Nam!
HÀ QUANG thực hiện