Dự án “Nâng cao năng lực đào tạo ngành kỹ thuật biển tại Đại học Thủy lợi” – biểu tượng của tình hữu nghị, sự hợp tác hiệu quả giữa Việt Nam và Hà Lan

Việt Nam là quốc gia ven biển, có bờ biển dài hơn 3.260 km và vùng biển rộng khoảng 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền. Với vị trí địa lý kinh tế – chính trị hết sức quan trọng và nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển, vùng ven biển được coi là cửa ngõ của cả nước để mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế và là địa bàn thuận lợi để thu hút đầu tư phát triển nhanh, làm động lực thúc đẩy các vùng khác trong cả nước.


Vùng biển và ven biển Việt Nam có nguồn tài nguyên khá phong phú và đa dạng bao gồm dầu khí, băng cháy, than, sắt, titan, cát thủy tinh, đá vôi xi măng và các loại VLXD khác. Tài nguyên hải sản với trữ lượng hơn 3 triệu tấn. Vùng ven biển có hơn 1 triệu ha bãi triều và các eo vịnh, đầm phá… thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ sản, nhất là các loại đặc sản có giá trị xuất khẩu cao. Dọc ven biển có hơn 100 địa điểm có thể xây dựng cảng biển, trong đó một số khu vực có thể xây dựng cảng nước sâu và cảng trung chuyển quốc tế; có hơn 125 bãi biển lớn nhỏ, cảnh quan đẹp thuận lợi cho phát triển du lịch – nghỉ dưỡng, trong đó có khoảng 20 bãi biển đạt tiêu chuẩn và quy mô quốc tế. Đây là tiền đề quan trọng để phát triển công, nông ngư nghiệp và các ngành kinh tế khác tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương ven biển theo hướng CNH, HĐH.


Tuy nhiên, vùng biển Việt Nam là khu vực có điều kiện thủy động lực, môi trường rất đa dạng, phức tạp, chịu tác động trực tiếp và mạnh mẽ của nhiều thiên tai như bão, lũ, nước dâng, xâm nhập mặn… gây ảnh hưởng không nhỏ cho phát triển KTXH ở dải ven biển.


Nhận thức được tiềm năng to lớn của biển, nước ta đã có “Chiến lược phát triển kinh tế biển và vùng ven biển Việt Nam đến năm 2020”, theo đó vùng ven biển sẽ được đầu tư phát triển mạnh để trở thành khu vực động lực thúc đẩy các vùng khác trong cả nước; các khu kinh tế, các trung tâm đô thị lớn, các khu công nghiệp, khai thác dầu khí, khoáng sản dưới lòng biển, phát triển du lịch, dịch vụ, cảng biển và nhiều công trình kinh tế xã hội quan trọng khác của quốc gia… sẽ được xây dựng ở vùng ven biển để đến năm 2020, GDP đóng góp từ các hoạt động liên quan đến biển có thể đạt trên 53%.


Nhiệm vụ đặt ra hết sức to lớn, tuy nhiên nguồn nhân lực có kiến thức toàn diện phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế biển của chúng ta còn rất hạn chế. Chính phủ Việt Nam nhận thức được sự cần thiết của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành kỹ thuật bờ biển và năm 2001, chính phủ vương quốc Hà Lan quyết định giúp đỡ Chính phủ Việt nam xây dựng ngành kỹ thuật bờ biển tại trường Đại học Thuỷ lợi (ĐHTL) để đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực về  kỹ thuật và quản lý vùng bờ cho cả nước.


Với sự giúp đỡ của chính phủ Hà Lan, dự án “Nâng cao năng lực đào tạo kỹ thuật bờ biển tại trường đại học Thủy lợi” được thực hiện từ năm 2001 và kết thúc vào cuối năm 2009, được chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 từ tháng 4/2001, kết thúc vào tháng 9/2005 và giai đoạn 2 từ tháng 10/2005 đến tháng 12/2009.







 Hội thảo tổng kết Dự án ” Nâng cao năng lực đào tạo ngành kỹ thuật bờ biển tại Trường Đại học Thuỷ lợi giai đoạn II ngày 6/5/2010

Các mục tiêu của dự án bao gồm (i) Xây dựng thể chế, (ii) Phát triển nguồn nhân lực và (iii) phát triển chương trình đào tạo. Sau 8 năm thực hiện, dự án đã đạt được những kết quả rất có ý nghĩa. Đó là xây dựng chương trình đào tạo đạt tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp với điều kiện của Việt Nam; đào tạo nguồn nhân lực bao gồm lực lượng giảng viên của khoa Kỹ thuật biển  khoa Kỹ thuật biển và các ngành có liên quan ở trường đại học Thủy lợi và đào tạo ngắn hạn cung cấp kiến thức cho những người hiện đang công tác và làm việc tại các tỉnh ven biển, cũng như đào tạo nguồn nhân lực có trình độ đại học và trên đại học về kỹ thuật bờ biển và quản lý vùng bờ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội lâu dài; Xây dựng cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học.


Pha I của dự án đã đạt được những thành tựu to lớn và được đánh giá là một trong những hình mẫu hợp tác đạt hiệu quả nhất. Những thành quả nổi bật là khoa kỹ thuật biển đã được mở ra tại trường Đại học Thủy lợi đào tạo bậc đại học từ năm 2003 với chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế và phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam. Lực lượng cán bộ giảng dạy của khoa Kỹ thuật biển cũng như các ngành khác được học tập đạt trình độ thạc sĩ, tiến sĩ đã đảm nhiệm được công tác đào tạo nguồn nhân lực có trình độ đại học về kỹ thuật biển cũng như khoa học công nghệ về cửa sông, ven biển. Cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu KHCN cũng được tăng cường và sử dụng có hiệu quả.   


Với những kết quả đáng khích lệ của pha I và quan điểm phát triển bền vững, chính phủ Việt Nam đã đề nghị chính phủ Hà Lan tiếp tục giúp đỡ nhằm tăng cường tiềm lực cho ngành kỹ thuật biển của Việt Nam. Chính phủ Hà Lan, thông qua đại sứ quán tại Hà Nội đã đồng ý hỗ trợ tiếp tục cho đại học Thủy lợi thực hiện pha II.     


Trong giai đoạn 2, trường ĐHTL sẽ không chỉ đào tạo ở bậc đại học mà sẽ tăng cường khả năng nghiên cứu khoa học, triển khai công nghệ về kỹ thuật bờ biển và quản lý tổng hợp vùng bờ cho đội ngũ giảng viên và sinh viên và hướng tới đào tạo trình độ Thạc sĩ và Tiến sĩ về lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ, quản lý biển, đảo và đới bờ của Việt Nam.


Các nghiên cứu sẽ hướng vào các vấn đề liên quan tới cửa sông, bờ biển và các vấn đề do các Bộ, Ngành khác nhau quản lý như Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE)/Tổng cục biển và Hải đảo (VASI), Cục Bảo vệ Môi trường Việt Nam (VEPA), Cục Đê điều và Phòng chống lụt bão (DDMFC), Viện Quy hoạch Thuỷ lợi (IWRP) v.v… nhằm gắn nhà trường với thực tế sản xuất và là động lực nhằm tăng cường khả năng nghiên cứu khoa học của Khoa KTBB.


Việc đầu tư đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị hướng tới các nghiên cứu và KHCN sẽ được tiếp tục pha 2. Để đạt tới chuẩn trình độ của khu vực và thế giới, đáp ứng nhu cầu của xã hội thì những đầu tư này cần được cụ thể hoá thông qua đào tạo và nghiên cứu.


Địa kỹ thuật được bổ sung vào nội dung của dự án pha 2 vì lĩnh vực này rất quan trọng trong việc giải quyết các bài toán liên quan đến vùng ven biển nơi nền đất yếu cần được nghiên cứu và xử lý khi xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng ven biển.   


Không những đội ngũ cán bộ có trình độ khoa học cao, mà sinh viên cũng cần được đầu tư để nâng cao trình độ tiếng Anh. Dự án pha 2 cũng sẽ giành kinh phí để đào tạo ngoại ngữ rộng rãi hơn, phục vụ cho đông đảo cán bộ và sinh viên của trường. Công tác đào tạo và nghiên cứu cũng cần tăng về mặt số lượng và chất lượng không chỉ ở bậc đại học mà còn cần tiếp tục ở bậc thạc sĩ và tiến sĩ.


Không phải do dự mà khẳng định một cách chắc chắn rằng dự án đã thực hiện được các mục tiêu đề ra. Các nghiên cứu đã xây dựng và thực hiện, đặc biệt là các vấn đề về đê biển và cửa sông vùng triều, đó là những ví dụ khoa học rất tốt cho đào tạo đổi với cả cán bộ giảng dạy và sinh viên. Bằng cách này, bản kế hoạch phát triển khoa cũng được xây dựng phù hợp với chiến lược phát triển của trường đại học Thủy lợi, trong đó khoa học công nghệ được đặt lên hàng đầu và các vấn đề liên quan tới vùng cửa sông, ven biển được đề xuất và triển khai thực hiện. Các khoa, trung tâm khoa học và phòng thí nghiệm của trường đại học Thủy lợi được nâng cấp đáp ứng đồi hỏi của sự phát triển. Hàng trăm ấn phẩm khoa học của các cán bộ khoa kỹ thuật biển và các khoa khác đã đăng và tham gia các hội nghị quốc tế.  


Hơn 30 cán bộ giảng dạy của nhà trường đã trực tiếp được đào tạo theo kinh phí hỗ trợ của dự án, trong đó gần 10 người đã và sẽ hoàn thành chương trình tiến sĩ. Phần lớn họ đã trở lại trường đóng góp hiệu quả cho việc đào tạo và khoa học công nghệ. Hàng trăm cán bộ nhà trường đã được bổ túc kiến thức ngoại ngữ, bồi dưỡng nghiệp vụ với các phương thức tiếp cận tiên tiến.     


Chương trình đào tạo ngành kỹ thuật bờ biển đã được triển khai từ năm 2003. Đến nay đã có trên 100 kỹ sư ngành kỹ thuật bờ biển đã tốt nghiệp và đang làm việc ở các bộ, ngành khác nhau. Hiện nay, hàng năm có khoảng 100 – 120 sinh viên được đào tạo về kỹ thuật bờ biển và quản lý vùng bờ. Một số môn học mới đã và đang được chuẩn bị (chẳng hạn như quản lý vùng bờ, nạo vét, hải dương học v.v…). Chương trình đào tạo thạc sĩ kỹ thuật bờ biển và quản lý biển, đảo, đới bờ đã được chuẩn bị trình Bộ Giáo dục – Đào tạo thông qua.  


Ngoài những hoạt động trợ giúp ngành kỹ thuật bờ biển, thì các ngành khác trong trường cũng được hưởng lợi chẳng hạn như bộ môn Địa kỹ thuật, bộ môn phát triển kỹ năng, trung tâm ngoại ngữ và trung tâm GIS. Với sự giúp đỡ rất tích cực của dự án, các khoa, bộ môn và trung tâm trên đã được cải thiện đáng kể.  


Không phải tất cả, nhưng phần lớn những hoạt động của dự án đã thành công, chẳng hạn cung cấp những kiến thức chuyên môn thực tế để sinh viên hiểu tốt hơn lý thuyết mà họ được cung cấp. 


Từ năm 2001 đến 2009, với sự giúp đỡ của chính phủ Hà Lan, một ngành học mới về kỹ thuật bờ biển và quản lý vùng bờ đã được xây dựng và phát triển ở trường đại học Thủy lợi.


Nguồn nhân lực trình độ đại học đã được đào tạo tại đây để cung cấp cho các Bộ, Ngành, các ngành kinh tế quốc dân. Các nghiên cứu liên quan đến đê biển, cửa sông ven biển cung cấp các kết quả cho việc giải quyết các vấn đề phục vụ phát triển kinh tế xã hội.


Tuy nhiên, các vấn đề ở dải ven biển Việt Nam đòi hỏi cần nhiều hơn nữa cả về đào tạo nguồn nhân lực và các nghiên cứu. Tình hình hiện tại ở Đại học Thủy lợi việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ kỹ sư với chuyên môn về kỹ thuật bờ biển mới chỉ là bước đầu và là cơ sở cho việc chuẩn bị đào tạo nguồn nhân lực có trình độ thạc sĩ. Trường Đại học cũng đã nhận được sự đồng ý của Bộ Giáo dục – Đào tạo về việc mở đào tạo thạc sĩ về kỹ thuật biển, đảo và chương trình đào tạo đang được Bộ xem xét thông qua. Việc chuẩn bị đào tạo thạc sĩ quản lý biển, đảo và đới bờ cũng như địa kỹ thuật đang được nhà trường chuẩn bị để trình Bộ Giáo dục – Đào tạo. Để việc đào tạo đạt kết quả tốt đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn để giảng dạy và nghiên cứu các vấn đề liên quan tới dải ven bờ.


Phần lớn đất đai của Việt Nam là các vùng đất thấp chịu ảnh hưởng của biển và các vấn đề khác liên quan tới nguồn nước và tất nhiên ở những vùng đất này phải chịu những ảnh hưởng trực tiếp của các thảm họa như ngập lụt do nước dâng, xói lở do sóng và dòng chảy. Trong bão, nước cao và sóng lớn sẽ tràn vào làm ngập lụt các vùng đồng bằng rộng lớn ở miền bắc và miền nam, trong khi ở dải ven biển miền Trung, mưa lớn trong bão gây lũ rất lớn trên hệ thống sông ngòi. Những con sông miền trung vào đầu mùa mưa thoát lũ cũng rất kém vì cửa song bị bồi lấp do bùn cát vận chuyển dọc bờ biển trong mùa cạn làm tăng ngập lụt cho dải đồng bằng. Vào mùa kho vấn đề nhiễm mặn gây khó khăn khong nhỏ cho cấp nước cũng như vận tải thủy gặp khó khăn do bùn cát lấp dần cửa sông.  


Áp lực dân số ở vùng ven biển cũng tăng lên một cách đáng kể. Khoảng 50% dân số của Việt Nam (khoảng 90 triệu vào năm 2010) sống ở dải đất ven biển và các huyện trực tiếp với biển. Thích ứng hay còn gọi là sống chung với các thiên tai sẽ không còn phù hợp nữa khi kinh tế phát triển. Phần lớn tăng trưởng kinh tế nằm ở các hoạt động kinh tế ở dải ven bờ của đất nước. Chính phủ Việt Nam cũng nhìn nhận thấy tiềm năng to lớn của biển và dải ven bờ và đã đưa ra mục tiêu đến năm 2020, hơn 50% GDP của đất nước sẽ được tạo ra ở dải ven biển (từ các hoạt động như đánh bắt và nuôi tròng thủy hải sản, khai khoáng, vận tải biển, du lịch và các hoạt động kinh tế khác). Chính vì vậy, vùng ven biển trở thành khu vực sôi động với rất nhiều các hoạt động kinh tế xã hội đang được hình thành cũng như vô vàn những khó khăn, mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình thực hiện.   


Biến đổi khí hậu là vấn đề vô cùng phức tạp. Việt Nam nằm trong Top 5 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của nước biển dâng. Lũ lụt, ngập úng sẽ thường xuyên hơn ở hệ thống sông và nước dâng do bão ở dải ven biển; thời kỳ nước kiệt trong sông sẽ thường xuyên hơn, kéo dài hơn làm cho tình hình nhiễm mặn sẽ nặng nề hơn và tình trạng thiếu nước ngọt sẽ xảy ra trong khi các vấn đề về dân số và kinh tế vẫn là áp lực không hề giảm. 


Để giải quyết các vấn đề đã nêu trên và hướng tới mục tiêu đặt ra thì sự giúp đỡ tiếp tục của chính phủ Hà Lan sau khi dự án kết thúc là điều hết sức cần thiết. Các hoạt động giúp đỡ bao gồm tư vấn và trợ giúp xây dựng các chương trình đào tạo và nghiên cứu, trực tiếp tham gia các hoạt động được nêu ra ở trên và đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy, cán bộ tư vấn cả về kiến thức và chuyên gia để giải quyết các vấn đề khó khăn và phức tạp của vùng ven biển.


 


Vũ Minh Cát