Thế hệ trẻ chúng tôi tiếp nhận Di chúc của Bác cách đây 40 năm

Độc giả thân mến!


Ban biên tập chúng tôi nhận được bức thư của cựu sinh viên Ngô Mậu Chiến – Lớp 10C2, trong thư có đoạn viết: “…Nhân dịp kỷ niệm 40 năm thực hiện di chúc Bác Hồ và kỷ niệm thành lập Trường, tôi có viết bài “thế hệ trẻ chúng tôi tiếp nhận di chúc Bác Hồ cách đây 40 năm, đây cũng là ký ức của bản thân, lớp trẻ chúng tôi hồi đó…”        


Xin trân trọng gửi đến độc giả bài viết của tác giả Ngô Mậu Chiến, tuy lời lẽ còn mộc mạc, chưa được “gọt dũa” nhiều, nhưng nó phản ánh lên hiện thực cùng cảm xúc chân thật của tác giả thời ấy.


Xin trân trọng giới thiệu.


 


Thế hệ trẻ chúng tôi tiếp nhận Di chúc của Bác cách đây 40 năm


 


Cách đây 40 năm thế hệ trẻ chúng tôi lúc đó nhiều người đang chiến đấu ở chiến trường, có người vừa sản xuất, vừa chiến đấu tại quê hương mình, trên các công – nông trường – xí nghiệp – nhà máy. May mắn hơn các bạn bè trang lứa, chúng tôi đang học tập trên các giảng đường Đại học.


Tôi nhớ lại ngày 3 tháng 9 năm 1969 trời mưa tầm tã, chúng tôi đi lấy gạo cho bếp ăn tập thể  của lớp, trên đường về lúc đó khoảng 9 giờ thì nghe bản tin đặc biệt của Đài tiếng nói Việt Nam thông báo Bác Hồ kính yêu đã qua đời, tin sét đánh đó làm cho chúng tôi bàng hoàng, chân tay rã rời, ai cũng thấy mệt moit nhưng cố gắng để về xem lớp mình thế nào…Chiều và tối hôm đó theo chỉ đạo của đồng chí Bí thư chi bộ và đồng chí lớp trưởng, chúng tôi lập bàn thờ Bác Hồ tại nhà ở sinh viên. Chúng tôi lấy hoa sim, hoa mua ở gần bên nhà ở làm vòng hoa và đi tìm ảnh Bác, thời đó có nơi lấy ảnh của Bác ở trong báo để thờ. Tuy rất buồn đau và lo lắng nhưng công việc làm rất tự giác, sáng tạo…Sau mấy ngày toàn trường tập trung làm lễ truy điệu Bác tại Hợp tác xã Nông nghiệp ở gần gốc đa Dùm, xã Nghĩa Phương – huyện Lục Nam – Hà Bắc. Trời mấy ngày liên tục mưa nhưng đến chiều hôm làm lễ truy điệu Bác trời tạnh, khô ráo. Cả nước làm lễ truy điệu theo tường thuật của Đài tiếng nói Việt Nam. Buổi lễ quá tôn nghiêm, gần 5 ngàn người đứng yên phăng phắc, lâu lâu nghe “phịch” một cái, cứ 5-7 phút lại có người ngã (vì ngất), đội cấp cứu làm việc không xuể, phải có những người khác hỗ trợ đưa người ngã vào trong lán sơ cứu. Người còn lại cứ chăm chú nghe điếu văn của đồng chí Lê Duẩn – Bí thư thứ nhất của Đảng đọc sang sảng  và vô cùng cảm động. Kết thúc điếu văn, chúng tôi hô vang 5 lời thề 3 lần như tiếng sấm vì đã dồn nén trong lòng nay lại vang lên. Có thế nói trong lứa tuổi của chúng tôi chưa bao giờ được chứng kiến một lễ tôn nghiêm và cảm động đến như thế. Ngay sau ngày Bác mất, chúng tôi được đọc bản di chúc của Bác công bố lần đầu tiên. Theo chỉ đạo của Đoàn trường và Chi bộ, chi bộ đoàn phát động học tập di chúc. Học di chúc lúc đó đơn thuần là học thuộc lòng điều Bác viết trong di chúc. Tôi là Bí thư chi đoàn lớp 10C2 (Khoa Thủy công) chữ lại đẹp, nên được giao nhiệm vụ viết lại bản di chúc của Bác trên nền giấy rô ky. Cả đêm hôm đó chúng tôi đã thức trắng để can giấy rô ky và viết lại bản di chúc. Ngày hôm sau treo lên phía tường lớp học, nhiều sinh viên đã chép lại toàn bộ di chúc của Bác và chỉ mất vài ngày sau tất cả các Đoàn viên đều thuộc lòng bản di chúc,  không phải chi đoàn lớp tôi mà lớp nào cũng vậy. Chúng tôi cảm nhận lúc đó di chúc của Bác, Bác dặn dò đầy đủ, Bác khẳng định cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù kinh qua gian khổ, hy sinh  nhưng nhất định thắng lợi. Bác dặn với Đảng phải xây dựng đoàn kết, phải chăm lo thanh thiếu niên, giáo dục họ thành người vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bác dặn sau giải phóng phải chăm lo đời sống của nhân dân, tích cực củng cố phong trào cộng sản quốc tế, nhắc nhở Đảng, Nhà nước ta phải cảm ơn các nước giúp đỡ ta về việc riêng Bác để cuối cùng (hồi đó chúng tôi đếm đúng 79 chữ). Bác dặn khi Bác qua đời không nên phúng điếu linh đình, điều chúng tôi tâm huyết và cảm động nhất vì cả cuộc đời Bác đã một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, Bác chỉ tiếc và tiếc rằng là không được phục vụ lâu hơn nữa.


Theo chỉ đạo của Đoàn Trường và liên chi đoàn khoa, các chi đoàn làm lễ phát động phong trào học tập và rèn luyện theo di chúc Bác. Trong buổi lễ, đại diện đoàn viên nam nữ lên phát biểu cảm tưởng, bày tỏ quyết tâm, mỗi người một ý, nhưng người nào phát biểu cũng rất cảm động và tỏ rõ quyết tâm cao, biến đau thương thành hành động cách mạng, cùng đoàn kết đi theo con đường Bác đã chọn, sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì mà Đảng, tổ chức phân công, trước mắt là học tập và rèn luyện tốt.


Đúng như lời hứa quyết tâm, tình hình chi đoàn tôi và toàn trường có sự chuyển biến đáng kể trong học tập, lao động và rèn luyện. Kết quả thi học kỳ I (1969-1970) đạt kết quả cao, xong học kỳ I chúng tôi bắt đâu chuyển về địa điểm trước khi sơ tán – học viện thủy lợi điện lực Đống Đa – Hà Nội. Dù có về Hà Nội nhưng phong trào tự quản của lớp vẫn giữ truyền thống, các nề nếp như quân đội, giờ nào việc đó. Sáng thể dục, ngày lên giảng đường – chiều thể thao, thể dục, tối tự học và kết quả thi học kỳ II đạt kết quả cao hơn nữa.


Những năm 1969 – 1970 chiến trường miền Nam đang đánh mạnh, Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, Bộ Đại học – Trung học chuyên nghiệp có chủ trương gọi sinh viên vào Quân đội. Lớp sinh viên chúng tôi hồi đó đang học năm thứ 3, 4 vẫn tư thế sẵn sàng lên đường. Nhiều sinh viên làm đơn tình nguyện vào Nam chiến đấu. Những năm 1970, 1791,1972 lớp lớp sinh viên tạm xếp bút nghiên vào quân đội, kể cả giáo viên trường Đại học cũng lên đường. Tôi nhớ lại khi chúng tôi hành quân vào dốc Bò Lăn – ranh giới Thanh Hóa và Nghệ An là giỗ đầu Bác Hồ và kỷ niệm một năm thực hiện di chúc của Bác. CHúng tôi đề xuất với chi đoàn Đại đội 2, E16, F325 sinh hoạt trao đổi tâm tư tình cảm và tự kiểm điểm sau một năm Bác đi xa, nhiều đồng chí ôn lại những kỷ niệm ban đầu, khi tiếp xúc với bản di chúc, làm bàn thờ Bác ở nơi sơ tán, những kỷ niệm vui buồn thời sinh viên…Và sau cái lần đó chúng tôi huấn luyện đi chiến trường, người đi ra Hà Nội về Quân chủng Phòng không – không quân, một số sau khi huấn luyện loại tên lửa mới lại hành quân vào Nam chiến đấu. Những ngày tháng gian khổ ở Trường Sơn thiếu muối, thiếu gạo, thiếu nước…cũng có lúc suy tư nhưng chúng tôi vượt qua. Hành quân gần 4 tháng đến Cà Chay (Campuchia), sau vài ngày chúng tôi tham gia chiến đấu liên tục từ đường 13 Bên Cát, Bình Long, Phước Long, Bù Đốp, Bù Đăng, núi Bà Đen, rừng Sát (miền Đông Nam bộ) và xuống đồng bằng sông Cửu Long chiến đấu. Những mùa mưa (mùa nước nổi) địch càn quét liên tục, trên trời trực thăng 2 lớp, dưới thì bộ binh đi trên xe M113 (xe lội nước), tàu vào các sông, pháo bầy, B52 cày xới đêm ngày, nhưng chúng tôi vẫn giữ niềm tin mà Bác khẳng định trong Di chúc: chúng ta nhất định sẽ chiến thắng. Lịch sử đã đặt sứ mệnh lên trên vai của chúng tôi rồi phải cùng nhau mà gánh đi – mỗi người gánh một ít sẽ nhẹ đi và đi đến đích nhanh hơn, tất cả chúng tôi đều nghĩ vậy…


Sau giải phóng, chúng tôi có dịp gặp nhau, có năm họp lớp, có năm về tựu trường, có khi thăm đơn vị cũ, gặp lại thủ trưởng cũ ai cũng thừa nhận khi lớp sinh viên chúng tôi vào đơn vị, phong trào huấn luyện chiến đấu, phong trào văn hóa, văn nghệ không khí đơn vị thay đổi hẳn.


40 năm qua, thực hiện di chúc Bác Hồ, lớp trẻ chúng tôi hồi đó là lớp sinh viên vào quân đội, nay người còn  người mất. Có nhiều người đã cống hiến xương máu và một phần xương máu cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Sau giải phóng, đại bộ phận sinh viên trở lại học tập tại Trường, có một số ở lại cũng được quân đội cho đi đào tạo các trường trong quân đội để cống hiến cho sự nghiệp đổi mới, công cuộc CHN-HĐH đất nước và xây dựng quân đội. Nhiều anh chị em trưởng thành, nhiều người trở thành các bộ cấp cao trong và ngoài quân đội. Ai ai cũng tự hào có được nghị lực để vượt qua mọi khó khăn, thử thách để chiến thắng, trước hết phải chiến thắng chính mình, đó là lớp người chúng tôi đã mang trong mình hành trang là Bản di chúc của Hồ Chủ Tịch.


 


 


Ngô Mậu Chiến


Hội Cựu chiến binh tỉnh Khánh Hòa


Cựu sinh viên lớp 10C2 – Đại học Thủy Lợi.