50 năm hệ thống Thủy lợi Bắc Hưng Hải (5/1959-5/2009): Bắc Hưng Hải mãi mãi nhớ ơn Bác Hồ


Theo lời kể của Cố Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Hà Kế Tấn



    Tham gia cách mạng từ lâu năm, nhưng năm 1958 tôi mới bước vào ngành Thuỷ lợi từ công trường Bắc Hưng Hải. Sau đó 15 năm liên tục làm lãnh đạo ngành thuỷ lợi.
Đối với tôi: công trình Đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải là hệ thống thuỷ lợi mà lúc nào tôi cũng quan tâm.


Dạo ấy (1958) tôi đang giữ chức Tư lệnh trưởng sư đoàn 350, bảo vệ Thủ đô, thì được Trung ương và Bác Hồ giao nhiệm vụ Trưởng ban chỉ huy Công trường Bắc Hưng Hải. Tôi báo cáo với Bác Hồ rằng: “Từ 1945 đến nay cháu là quân đội, chưa biết gì về Thuỷ lợi. Nay cháu được giao nhiệm vụ chỉ huy, cháu lo không hoàn thành nhiệm vụ. Bác ôn tồn khuyên nhủ, nay tôi còn nhớ được một số ý chính như là: “ Chú này lẩn thẩn, chưa biết gì thì cứ vừa làm vừa học rồi khắc biết, trước chú chưa học quân sự ngày nào, mà sao vẫn chỉ huy bộ đội đánh giặc được”







 


  


 Bác Hồ đến thực địa góp ý cho Quy hoạch hệ thống Bắc Hưng Hải


Tôi hăng hái lên công trường Bắc Hưng Hải. Cùng theo lệnh của Đảng và Chính phủ, hàng trăm cán bộ, quân, dân, chính Đảng ở TW và địa phương, dân công ba tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương các đơn vị bộ đội, thầy giáo và sinh viên các trường Đại học, nhất là trường Đại học Bách Khoa… đều hăng hái đến công trường lao động. Gần mười năm chinh chiến trận mạc, nhiều lúc cũng lo lắng về trách nhiệm. Nhưng đứng trước một sự nghiệp vĩ đại như thế này, lại được Bác giao, tôi mất ăn, mất ngủ lo không hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chỉ huy trưởng một đại công trường thuỷ lợi hàng mấy vạn người, nhưng lúc mới bắt đầu tôi có biết đâu là “ta luy” là “ góc nghỉ”, “góc trượt” của đất, đâu là ứng suất beton… Nhưng vâng lời Bác tôi tranh thủ học hỏi ngay các kỹ sư giúp việc cho tôi lúc bấy giờ. Càng làm tôi càng thấm lời Bác dạy. Trước khi khởi công ngày 20/9/1958, Bác Hồ đã xuống đê Xuan Quan thăm hỏi và nói chuyện với cán bộ, công nhân, và nhân dân gấp rút chuẩn bị. Bộ áo nâu giản dị, mái tóc bạc phơ, chúng tôi hàng ngàn người vây quanh Bác bên mái đê Xuân Quan, lắng nghe tiếng nói ấm áp của người: “Cán bộ cần phải biến quyết tâm của Đảng và Chính phủ thành quyết tâm của toàn thể nhân dân”.


Bác căn dặn cụ thể, đối với dân công phải: “Giáo dục tốt, phải công tác chính trị tốt. Phải làm cho mọi người hiểu rằng: Công trường BHH là ích lợi chung, ích lợi to, ích lợi lâu dài cho nhân dân ba tỉnh. Đó là việc ích nước, lợi nhà. Phải làm cho mọi người hăng hái góp công sức”


Bác bảo phải tổ chức thật tốt, phải lãnh đạo thật tốt, dân công cũng như quân đội phải có kỷ luật chặt chẽ và dụng cụ phải sẵn sàng đầy đủ. Đối với cán bộ Bác nói: “Phải đồng cam cộng khổ với nhân dân, phải khuyến khích và giúp đỡ nhân dân phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất”.


Toàn ban chỉ huy chúng tôi lao vào công việc, cùng với chuyên gia Trung Quốc. Những việc tưởng chừng như nan giải như: Giải phóng mặt bằng, dời đi một nửa làng Bát Tràng cổ kính, gần hàng trăm hộ nhà gạch, hoặc cắt hàng trăm mẫu lúa vừa trổ bông… Nhưng làm theo lời Bác, làm cho dân hiểu, dân tin là mọi việc đều đâu vào đấy. Trong chưa đầy nửa tháng, không ai phải giải thích đến hai ba lần.


Đất nước vừa mới giải phóng. Kinh tế kỹ thuật còn hết sức nghèo nàn lạc hậu, trang thiết bị chủ yếu là dụng cụ cầm tay nhưng trong 6 tháng phải hoàn thành một khối lượng gần ba triệu mét khối đất, gần 8000 mét khối bê tông và hơn hai chục vạn mét khối đá xây lát. Cán bộ và công nhân kỹ thuật rất thiếu và rất yếu về trình độ, kinh nghiệm… lực lượng thì du kích nhưng bắt buộc phải đánh kiểu trận địa, tốc chiến tốc thắng, 6/1/1957 mở nước vào đồng 1/5/1959 hoàn thành công trình trước khi lũ đến.


Một sự cố kỹ thuật xảy ra khi mở cống Xuân Quan đến cốt… Buộc phải dịch chuyển vị trí cống. Toàn công trường hết sức lo lắng. Tôi cùng ban chỉ huy và các đồng chí chuyên gia thức trắng hàng tuần lễ. Bác Hồ cũng thường xuyên theo dõi săn sóc việc xử lý sự cố. Bác thường xuyên nhắc chúng tôi thảm kịch lịch sử “Đê Văn Giang vỡ 18 năm liền” dưới triều đại Tự Đức. Nhưng với quyết tâm cao của toàn công trường, việc xử lý thành công tốt đẹp, và cuối tháng 11/1958 tôi đã lên báo cáo với Bác Hồ là 6/1/1959 công trường dẫn nước vào tưới vụ chiêm, hứa với Bác là 1/5/1959 công trình sẽ hoàn thành, Đê cống Xuân Quan sẽ chắc chắn vững vàng hơn bất cứ đoạn nào trên sông Hồng.


Hàng tháng tôi vẫn phải lên Hà Nội trực tiếp báo cáo với Bác về tình hình công trường. Bác luôn hỏi tôi về đời sống dân công, mức ăn uống, rau tươi, thực phẩm… đến nơi ăn chốn ở, điều kiện vệ sinh, năng suất lao động… Mỗi lần báo cáo với Bác là mỗi lần tôi được học hỏi sâu thêm về công tác thuỷ lợi, về chỉ huy công trường.


Ngày 16/10/1958, Bác lại về thăm dân công ở Công trường thuộc 3 tỉnh đào mương Gia Thuận nạo vét sông Đình Dù để chuẩn bị đón nước cống Xuân Quan… Bác đã thân mật nói chuyện với hơn 6000 người tại cống Lạc Đạo (Văn Lâm). Ngày 25/12/1958, Bác lại xuống thăm công trường Cống Xuân Quan và đào kênh ngoài. Tôi được báo quá gấp, chưa có sự chuẩn bị nào thì Bác đến. Hôm ấy mưa phùn và giá rét. Toàn công trường vẫn hăng hái lao động với quyết tâm rất cao … Bác bảo tôi dẫn đi thăm công trường. Tôi ngại Bác vất vả nên xin khất Bác lần khác vì hôm nay quá mưa rét và đường trơn. Bác đã bảo tôi: “Bộ đội dân công còn lao động ngoài mưa rét, sao Bác lại không ra tận nơi thăm hỏi được”.


Và thế là Bác cứ đi. Tôi và đồng chí trong Ban chỉ huy chỉ còn cách chạy theo: Bác leo lên dàn giáo cống Xuân Quan hỏi thăm anh em công nhân sắt, mộc, bêtông. Tôi vừa đi vừa báo cáo với Bác nội dung công việc đang tiến hành. Bác tươi cười bảo tôi: “Chú tiến bộ lắm về kỹ thuật thuỷ lợi rồi đó” Sau khi thăm cống Xuân Quan tôi muốn mời Bác nghỉ nhưng Bác gạt đi. Quần xắn cao tới đầu gối dưới làn mưa bụi, chiếc mũ cát trắng của Bác nhấp nhô giữa biển người, kéo một mạch từ Xuân Quan ra Bát Tràng. Chốc chốc Bác lại dừng chân thăm hỏi. Qua những đoạn bùn lầy quá trơn, có người xin cõng nhưng Bác gạt đi, tụt dép cầm tay và cứ thế tiến lên. Chúng tôi cố len lách xô đẩy cũng không đuổi kịp. Tiếng hô: “ Hồ Chí Minh muôn năm” vang lên như sấm, hôm đó Bác còn lao vào làng mới Bát Tràng nơi những hộ di chuyển đến, để thăm hỏi và động viên. Thủa ấy máy móc rất ít, chỉ có con người chạy đua với thời gian. Mục tiêu phải hoàn thành công trình trước mùa lũ phải giành cho được. Bình quân hơn 2 vạn con người, lúc cao điểm hơn 3 vạn, đủ các thành phần dân công, học sinh, sinh viên, cán bộ Trung ương và địa phương, các đoàn khách quốc tế… được tổ chức tốt, năng suất lao động tăng cao. Ngày 20/2/1959, trước khi hoàn thành công trình, Bác lại về thăm công trường và động viên chúng tôi giữ vững quyết tâm.


Ngày 1/5/1959, mọi công việc hoàn thành, Cống Xuân Quan với 4 cửa lấy nước và 1 cửa âu mở toang cho nước sông Hồng tuôn về đồng ruộng, giữa tiếng gieo hò của hàng vạn cán bộ công nhân viên và nhân dân ba tỉnh.


Trên 15 năm tiếp theo, với cương vị lãnh đạo ngành Thuỷ lợi. Trong đó có hơn 10 năm đứng đầu ngành, tôi còn được nhiều lần báo cáo với Bác về Thuỷ lợi nói chung và về Bắc Hưng Hải nói riêng.


Trong mối quan tâm chung, Bác hằng quan tâm đến vùng Bắc Hưng Hải, “mười năm chín hạn”. Nói đúng thêm còn phải chín úng nữa. Vì hễ năm nào úng là có hạn. Năm 1969 lũ sông Hồng lên rất to. Nằm trên giường bệnh, bệnh tình rất nặng Bác vẫn lo cho dân. Khi thủ tướng Phạm Văn Đồng vào thăm Bác nói: “Nước đang lên to đấy, chú Kỳ bảo Bác sơ tán lên chỗ cao, nhưng Bác không đi đâu. Bác ở với dân. Các chú đừng để lụt, đừng để vỡ đê”. Sau khi đồng chí Phạm Văn Đồng đích thân đi kiểm tra đê và cùng với tôi vào báo cáo Bác mới yên tâm. Đến nay đê Xuân Quan vẫn giữ được lời đã hứa với Bác. Qua 35 năm phấn đấu Bắc Hưng Hải ngày nay đã trở thành một Đại thuỷ nông; trong đó hàng triệu nhân dân đã và đang hưởng hạnh phúc lâu dài hàng trăm năm như Bác đã tiên đoán khi về thăm công trường trước lúc khởi công.


Bổn phận của chúng ta là phải giữ gìn, tu tạo lấy cơ sở vật chất – kỹ thuật đã tạo nên hạnh phúc to lớn ấy, để dân giàu nước mạnh, để thế hệ này nối thế hệ khác hạnh phúc lâu dài và để không phụ lòng quan tâm của Bác đối với Bắc Hưng Hải. Đó là phải quản lý khai thác thật tốt toàn hệ thống để đem lại hạnh phúc lâu dài hàng trăm năm cho dân./.


Tháng 5 năm 1994
Theo Tập san 50 năm Hệ thống Thủy lợi Bắc Hưng Hải – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn