![]() |
GS. Nguyễn Xuân Bảo trò chuyện cùng phóng viên |
Giáo sư Nguyễn Xuân Bảo thôi chức Hiệu trưởng ngày 12/31/1999. Là người giữ chức vụ Hiệu trưởng lâu nhất nhiệm kỳ từ năm (1981-1999), Giáo sư như một nhân chứng lịch sử của quá trình xây dựng và phát triển qua nhiều thời kỳ với những điều kiện lịch sử khác nhau cùng những bước thăng trầm của Nhà trường.
PV: Thưa Giáo sư Nguyễn Xuân Bảo, trong suốt gần 20 năm trên cương vị lãnh đạo của Nhà trường, Giáo sư hãy chia sẻ cho bạn đọc nghe thời kỳ khó khăn nhất trong chặng đường 45 năm phát triển trường ĐH Thủy lợi?
GS. Nguyễn Xuân Bảo: Đó là vào những năm giao thời giữa hai thập kỷ 70-80. Trong bối cảnh khó khăn chung của đất nước, ngành Giáo dục – đào tạo do không được đầu tư đúng mực, nên đang ở trên đà trượt dốc nghiêm trọng cả về quy mô lẫn chất lượng. Chủ trương giảm nhẹ đầu mối, thu hẹp quy mô theo tinh thần NQ73/TTg của Thủ tướng Chính phủ, nhưng vẫn không mang lại kết quả mong muốn. Trong tình trạng đó, trường ĐHTL của chúng ta cũng lâm vào hoàn cảnh lúng túng khó khăn, có những ngành nghề không ổn định, lúc có lúc không và có nguy cơ phải sát nhập với một số trường đại học khác bởi những quan niệm truyền thống, lỗi thời về nội hàm “thuỷ lợi” không còn phù hợp với sự phát triển đất nước trong thời đại hiện nay. Bên cạnh đó đời sống cán bộ, thầy giáo và sinh viên trường ta cực kỳ khó khăn, tiền lương nhỏ nhoi không đủ nuôi sống gia đình, hầu hết phải làm thêm nghề phụ, những nghề mà lẽ ra không đáng có ở một trường đại học; nhà ở chật chội phần lớn là nhà cấp 4 đã xuống cấp, một số thầy giáo đã xin đi khỏi trường.
PV: Đứng trước vấn đề đó, sức ép cho Đảng ủy và Ban Giám hiệu Nhà trường như nào? Và Giáo sư với vai trò người đứng đầu đã tìm ra giải pháp gì để thoát khỏi tình trạng khó khăn chung này?
GS. Nguyễn Xuân Bảo: Cùng với tập thể Đảng ủy và Ban Giám hiệu Nhà trường chúng tôi cho rằng trước tiên phải tìm cho được “lối ra” (ra đường dẫn) trong cái vòng luẩn quẩn của một trường đại học có quy mô nhỏ bé lại đào tạo những chuyên ngành quá hẹp theo mô hình Liên Xô cũ và Trung Quốc. Và chỉ từ lối ra đó chúng ta mới có thể tìm được lối lên để có được một định hướng phát triển lâu dài trong thế ổn định vững chắc của một trường đại học. Định hướng đó sau này đã được tổng kết và khái quát hoá bằng mô hình Đường dẫn – Đường băng/Sân bay về sự phát triển của nhà trường đến năm 2020.
PV: Giáo sư nói rõ hơn về lối ra của trường?
Sau chuyến đi dự Hội nghị quốc tế lần đầu tiên của tôi trên cương vị Hiệu trưởng tại Ấn Độ vào năm 1981, tôi đã tìm thấy cho mình một cách nghĩ mới, một giải pháp mới có tính cơ bản và lâu dài mang tầm chiến lược: phải đổi mới tư duy về công tác thủy lợi, chí ít cũng là ở trên góc độ đào tạo. Theo đó Thuỷ lợi không phải chỉ là thuỷ nông, càng không phải chỉ là một “biện pháp hàng đầu” trong nông nghiệp như quan niệm bấy lâu, mà với quan niêm mới do trường ĐHTL chúng ta khởi xướng: Thuỷ lợi là một ngành kinh tế, và nước với tư cách là một tài nguyên- một tài nguyên quan trọng bậc nhất trên hành tinh này. Đã là một ngành kinh tế thì phải bao hàm các khâu: sản xuất, lưu thông, phân phối. Là tài nguyên thì việc sử dụng phải gắn liền với bảo vệ. Đây là quan niệm đầy đủ nhất, toàn diện nhất về công tác thuỷ lợi nước ta và đó là căn cứ khoa học để thiết kế lại hệ thống ngành học của trường ta.
PV: Hiệu quả của bước đổi mới đó ra sao, thưa Giáo sư?
GS. Nguyễn Xuân Bảo: Trên nền tảng tư duy đó, đặc biệt dưới ánh sáng Nghị quyết 14/ 1979/ NQ-BCT về cải cách giáo dục của Bộ Chính trị, Tiểu ban Cải cách giáo dục của Nhà trường lần đầu tiên đã xây dựng thành công một nhóm ngành học mới có tên gọi là “Phát triển tài nguyên nước”. Nhóm ngành bao gồm 6 ngành rộng với 11 chuyên ngành, trong đó có sự kế thừa một số chuyên ngành truyền trước đó và đã được chính thức ghi vào hệ thống danh mục ngành nghề đào tạo của Nhà nước từ năm 1984, thay vì chỉ có 5 chuyên ngành hẹp trước đây nằm rải rác ở các mã nhóm ngành khác nhau như: nông nghiệp, xây dựng, điều tra cơ bản.
Với cách làm đó Trường ĐH Thủy lợi đã tìm được “lối ra”, tự khẳng định được mình với tư cách là một trường đại học đầu ngành của cả nước về lĩnh vực Kỹ thuật tài nguyên nước. Vị thế của nhà trường từ đó đã được xác lập trong tư thế ổn định thuộc hệ thống các trường đại học nước ta, đồng thời từ đó cũng tạo ra tiền đề vững chắc cho quá trình đầu tư phát triển lâu dài của nhà trường. Và cũng từ đây, phương án sáp nhập trường ta với các trường đại học khác đã được giải tỏa .
PV: Và giai đoạn tìm “lối lên”…
Nhờ có đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xường từ năm 1986, từ lối ra trên nền tảng tư duy mới về thuỷ lợi, trường ĐHTL của chúng ta liên tục phát triển từng bước tiếp cận với nền kinh tế thị trường. Đứng trước sự kiện sáp nhập 3 Bộ năm 1995, nội bộ trong ngành thuỷ lợi có những ý kiến khác nhau và thiên về âm tính, nhưng một lần nữa đứng trên góc độ đào tạo, Ban Giám hiệu Nhà trường coi đây la thời cơ đưa công tác thuỷ lợi nước ta lên tầm cao mới: Phát triển bền vững trong môi trường đất- nước- rừng của một nền nông nghiệp sinh thái, đa dạng sinh học và thủy lợi với tư cách vừa là kỹ thuật tài nguyên nước, vừa là kỹ thuật xây dựng cơ sở hạ tầng phải được ưu tiên đi trước một bước.
Với tư duy đó, trường ta tiếp tục tiến hành cải cách giáo dục lần thứ 2 thiết kế lại hệ thống ngành học trên quan điểm toàn diện, phát triển bền vững, đào tạo đa ngành, tổ chức lại quá trình đào tạo theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, đa dạng hoá, xã hội hoá. Kết quả chúng ta đã xây dựng được một hệ thống cơ cấu gồm 9 ngành với 21 chuyên ngành đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT phê duyệt từ năm 1999 và đến nay đã được Bộ Giáo dục -đào tạo cho tuyển sinh được 9 ngành và 19 chuyên ngành. Rồi gần đây, về cơ bản cũng trên nền tảng tư duy này, Trường ĐHTL cũng đã xây dựng thành công chiến lược phát triển của nhà trường giai đoạn 2006-2020 với sự trợ giúp của Chính phủ Đan Mạch. Bản chiến lược đã được Bộ trưởng Cao Đức Phát phê duyệt ngày 15/6/2006, được coi như là một cuộc cải cách đào tạo lần thứ 3 nhưng sâu sắc hơn, toàn diện hơn và công phu hơn so với hai lần cải cách trước. Mục tiêu đề ra cho chiến lược lần này là: trong 15 năm tới phấn đấu trở thành một trong 10 trường đại học hàng đầu của Việt Nam, đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học chất lượng cao với 26 ngành học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, tạo dựng được thương hiệu “Đại học Thuỷ Lợi Việt Nam” có uy tín, đủ sức cạnh tranh và hợp tác bình đẳng với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Cá nhân tôi đặt rất nhiều hy vọng và bản chiến lược này, và tin rằng đến năm 2020 “con tàu Đại học Thuỷ Lợi Việt Nam” sẽ thoát ra khỏi “đường băng” để “cất cánh”, nhanh chóng đuổi kịp sánh ngang hàng với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong buổi lễ đón tiếp Bộ trưởng NN&PTNT Cao Đức Phát, bàn về Chiến lược phát triển trường ĐHTL giai đoạn 2006-2020
PV: Thưa Giáo sư, tìm lối ra từ đó tìm được lối lên cho một trường đại học có quy mô nhỏ bé là một bước tiến đúng đắn và táo bạo. Nhưng chính đội ngũ những người “thợ” góp phần xây dựng con đường là yếu tố then chốt dẫn đến thành công. Đội ngũ những người “thợ” đó chính là tập thể cán bộ, giáo viên trường ĐH Thủy Lợi. Nhà trường có giải pháp nào nhằm cổ vũ, động viên đời sống vật chất tinh thần tạo động lực cho cán bộ, giáo viên trong trường yên tâm công tác vượt qua được thời kỳ bao cấp khó khăn?
GS. Nguyễn Xuân Bảo: Chủ trương của lãnh đạo nhà trường là đặt công tác đời sống ngang hàng với công tác đào tạo và đưa ra nhiều giải pháp tình thế táo bạo, độc đáo được cấp trên khen ngợi như liên kết với huyện Hoàng Long -Ninh bình để làm trại nuôi bò, nuôi lợn, đào ao thả cá để cung cấp thực phẩm cho cán bộ, giáo viên và nhà ăn tập thể sinh viên; đất đào ao được dùng làm gạch để làm nhà ở cho cán bộ trong trường,…(sân vận động, sân tennist bây giờ là lò gạch, là ao cá Bác Hồ trước kia), những người cộng sự đắc lực với tôi lúc đó là Thầy Hiệu phó Nguyễn Cầm và thầy Chủ tịch công đoàn Phạm Chơn là những tấm gương làm việc quên mình vì công viêc này mãi mãi nằm trong ký ức của tôi.
Với tư cách là một nhân chứng lịch sử, điều tôi muốn nói ở đây là những lúc khó khăn như thế trong hoàn cảnh chung của đất nước, có thể khẳng định một điều rằng, đội ngũ thầy giáo, cán bộ, công nhân viên, sinh viên của trường ta rất tốt. Họ vẫn giữ trọn niềm tin và nghe theo lời Đảng, không bao giờ sao nhãng nhiệm vụ. Đây không phải chỉ là lần đầu thử thách, mà đội ngũ trường ta đã được tôi luyện thử thách trong những năm tháng chiến tranh ác liệt nơi sơ tán. Phong trào dạy tốt, phục vụ tốt, học tốt của trường ta được hình thành và phát huy cao nhất vào thời gian này, và trở thành một trong những truyền thống tốt đẹp của trường ĐHTL chúng ta .
Những lúc khó khăn nhất mọi người càng quan tâm với nhau hơn, giúp đỡ nhau hơn, cùng nhau chia xẻ. Khái niệm đặc quyền, đặc lợi không có ở đây lúc này mà thay vào đó là sự công bằng. Động lực tinh thần duy nhất được tạo nên ở trường ĐHTL chúng ta lúc bấy gìờ, sự công bằng và tính gương mẫu của những người lãnh đạo, là yếu tố quan trọng giúp trường ta vượt qua mọi khó khăn thử thách để tìm được “lối ra”.
PV: Công bằng-Động lực, mối quan hệ đó có thể coi là một triết lý của thời ký khó khăn trong lịch sử trường ta không, thưa Giáo sư!
GS: Cho mọi thời kỳ.
PV: Đã có rất nhiều cán bộ nhân viên từ chức danh Giáo sư đến nhân viên công vụ nói rằng họ rất thích được làm việc với Giáo sư bởi vì trước hết, họ cảm thấy hoàn toàn thoải mái, không có khoảng cách và Giáo sư là một nhà lãnh đạo có tầm. Dường như đây cũng là bí quyết lãnh đạo của Giáo sư?
GS. Nguyễn Xuân Bảo: Đó là cái Tâm.
Trao vật kỷ niệm và chúc mừng hiệu trưởng mới GS. Lê Kim Truyền (nhiệm kỳ 2000-2005)
PV: Gần 20 năm là Hiệu trưởng – cũng là gần 20 năm gánh vác những trách nhiệm nặng nề trong những năm tháng khó khăn phức tạp nhất của trường ĐH Thủy Lợi. Giáo sư có rất nhiều tâm sự với những người đồng nghiệp của Giáo sư?
GS. Nguyễn Xuân Bảo: Trách nhiệm của người đứng đầu Nhà trường là đề ra các chủ trương, tập hợp lực lượng và tổ chức thực hiện. Song nếu không được sự đồng tâm nhất trí của tập thể lãnh đạo vì sự đúng đắn của nó, không được sự ủng hộ, sự cộng tác đầy trách nhiệm của các thành viên trong trường mà trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt, thì tôi không thể hoàn thành được nhiệm vụ Bộ giao trong điều kiện vô cùng khó khăn phức tạp. Vì lẽ đó tôi mãi mãi cảm ơn họ, trong số đó có những người đã nghỉ hưu, có những người đã chuyển công tác, thậm chí có người đã khuất. Tất cả đều để lại trong tôi, trong ký ức và trái tim tôi những ấn tượng sâu sắc, những tình cảm trìu mến, và những kỷ niệm khó quên.
PV: Ngoài sự cảm ơn sâu sắc đến đồng nghiệp, bạn hữu Giáo sư muốn dành lời cảm ơn chân thành đến ai nhất?
Thật là thiếu sót nếu như không nói lời cảm ơn từ đáy lòng tôi tới một người đã từng nhiều năm tận tụy vất vả hy sinh, lo toan mọi công việc gia đình để và chăm sóc các con để tôi an tâm và có nhiều điều kiện về thời gian cho công việc nhà trường. Người đó chính là vợ tôi, Đỗ Phương Chi, một giáo viên khoa Kinh tế. Tuy nay đã nghỉ hưu không làm việc ở nhà trường, nhưng trên thương trường với thương hiệu “Nhà mốt Bằng Lăng” vợ tôi đã tạo cho tôi một cuộc sống yên bình để tiếp tục làm việc trong những năm tháng còn lại của cuộc đời.
Tổ ấm nhỏ hạnh phúc
PV: Thế còn với những học trò của mình, Giáo sư có những kỷ niệm nào đặc biệt?
GS.Nguyễn Xuân Bảo: Với hơn 40 năm công tác tại trường trong đó 27 năm trực tiếp cầm phấn có rất nhiều kỷ niệm đáng nhớ trong cuộc đời dạy học của tôi.
Đó là những ngày đầu tiên đứng trên bục giảng, thấy thầy giáo quá trẻ nên trong lớp có những sinh viên rất giỏi muốn thử sức thầy bằng cách đưa ra những câu hỏi hắc búa. Vì thế tôi và các thầy cùng trang lứa lúc bấy giờ trước khi lên lớp phải chuẩn bị giáo án rất kỹ, trò hỏi đến đâu, thầy trả lời đến đấy làm các em “thất vọng” phải chào thua luôn.
Đó là những ngày sơ tán, buổi sáng lên lớp buổi chiều xuống các tổ phụ đạo. Thầy bám sát trò gần như ba cùng: hiểu tính tình, hoàn cảnh, đối xử với các em như người anh lớn trong gia đình.
Đó là những ngày cùng các em sinh viên tham gia chuẩn bị cho cuộc thi SV 96. Các thầy như trẻ lại cùng với các em, thầy trò cùng nghĩ ra các câu đố vừa dí dỏm vừa trí tuệ, cùng tham gia xây dựng các kịch bản. Tất cả vì mầu cờ sắc áo của trường ta. Chiến thắng trong SV96 đã từng một thời là niềm tự hào cho tất cả những ai đã từng công tác, học tập ở trường ĐH Thuỷ Lơi.
Còn nhiều kỷ niệm khác nữa nhưng tôi không thể kể hết ở đây được.
PV: Là một nhà giáo lâu năm và từng trải, Giáo sư có nhắn nhủ gì với các em sinh viên hiện đang ngồi trên ghế nhà trường?
GS.Nguyễn Xuân Bảo: Thứ nhất, hãy thay đổi cách quan niệm vể Học và Thi để có một thái độ và động cơ học tập đúng đắn phù hợp với yêu cầu hiện nay:
– Học không phải chỉ để Thi, mà Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng định minh, Học để chung sống với moi người.
– Thi không phải chỉ để đạt điểm cao mà Thi còn là để Học
Thứ hai, đừng coi nhẹ các kỹ năng cần thiết trong tất cả các môn học, trong cách đọc, cách ghi lời thầy giảng và cả trong cuộc sống. Kỹ năng mới tạo ra năng suất, kỹ năng mới cho ta hiệu quả. Kỹ năng là tiêu chí quan trọng để tìm kiếm việc làm trong thị trường sức lao động hiện nay.
Thứ ba, được học đại học là các em có nhiều may mắn hơn các bạn cùng trang lứa, từ đó các em sẽ kiếm được việc làm tốt hơn. Nhưng thầy khuyên các em vì sự tồn tại của các em không nên tự mãn với mình để khỏi ân hận về sau, các em nên nhớ: “Được học thì phải Học được, lúc này Nhà trường phân loại các em. Được làm thì phải Làm được, lúc này xã hội phân loại các em”. Công bằng xã hội về học tập và việc làm là như vậy.
PV: Mặc dù đã về hưu nhưng Giáo sư vẫn tham gia công tác ở nhiều lĩnh vực. Phải chăng công việc đã gắn liền với cuộc đời Giáo sư?
GS. Với tôi, công việc là một nhu cầu, đã là nhu cầu thì không thể từ bỏ. Từ khi về hưu đến nay tôi vẫn là cộng tác viên của trường ta, của Khoa Xây dựng trường Đại học Xây dưng, là uỷ viên Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước và kiêm chủ tịch Hội đồng chức danh giáo sư ngành thuỷ lợi. Ngoài ra tôi còn tham gia hoạt động các tổ chức xã hội nghề nghiệp.
Khoảng thời gian hết sức bình dị sau những giờ làm việc căng thẳng của GS.
PV: Xin cảm ơn Giáo sư!
“Trường ĐH Thủy Lợi, Bộ môn Sức bền kết cấu, Bộ môn Kết cấu công trình mãi mãi là những cái tên thân thuộc, một gia đình lớn với những con người đầy lòng vị tha, và những kỷ niệm hằn sâu trong ký ức không thể nào quên. Chính tại đây tôi đã bước vào đời, sống và làm việc tại đây, trưởng thành tại đây, và kết thúc cuộc đời công tác của tôi tại đây”- Giáo sư Nguyễn Xuân Bảo – nguyên Hiệu trưởng trường ĐH Thủy Lợi nhiệm kỳ 1981-1999
Vân Khánh và Phạm Thơm thực hiện