M Sinh ra trên quê hương đất học Nghệ An, nơi hội tụ của những hiền tài đất Việt. Thầy được nuôi dưỡng trong một gia đình nhà nho có truyền thống hiếu học. Tuổi thơ của Thầy gắn với khói lửa bom đạn của chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Với bao khó khăn và không ít những trở ngại nhưng chính trong hoàn cảnh ấy Thầy lại có những khát khao về học tập. Thầy An trầm tư kể cho chúng tôi nghe về những thăng trầm trong cuộc sống mà Thầy đã trải qua, bắt đầu từ khi cậu học trò xứ nghệ chân ướt chân ráo ra Hà Nội thi tuyển vào đại học. “Đó là lần đầu tiên Thầy biết đến thủ đô và cũng là năm đầu tiên trường Thủy Lợi tổ chức thi tuyển. Hồi đó thực sự Thầy đã biết thủy lợi là gì đâu? ”. Thầy trở thành sinh viên khóa ba của trường từ năm 1961 đến năm 1965 thì Thầy tốt nghiệp và là một trong số 11 sinh viên khóa ba được giữ lại trường làm công tác giảng dạy. Từ đó Thủy Lợi là gia đình thứ hai của Thầy, chính nơi này Thầy đã trọn một đời gắn bó. Cho đến ngày hôm nay khi tuổi đã ngoài lục tuần, Thầy vẫn nhiệt tình với công tác giảng dạy ở bộ môn thủy lực góp phần đào tạo những thế hệ kĩ sư và cán bộ khoa học thuỷ lợi. “Hơn bốn mươi năm một mái trường Nặng tình, nặng nghĩa, nặng yêu thương Gắn bó buồn vui cùng Thuỷ Lợi Để rồi trang sách mãi thơm hương” Từ những năm giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, Thầy cùng trường đi sơ tán lên Lục Nam Hà Bắc thuộc tỉnh Bắc Giang ngày nay. Ngoài giảng dạy Thầy còn tham gia công tác bảo vệ đê điều trên nhiều triền sông của miền Bắc. Những cống hiến của Thầy trong chiến tranh chống Mỹ đã được nhà nước công nhận, và Thầy đã vinh dự được trao tặng huy chương chống Mỹ hạng nhất. Năm 1971 Thầy được cử đi nghiên cứu sinh ở Liên Xô, đến 1975 khi đã trở thành tiến sĩ, Thầy về nước và tiếp tục công tác tại trường. Thầy liên tục giữ chức vụ Phó bộ môn Thủy Lực của trường từ 1976 đến năm 2000 và trong đó có năm năm giữ chức vụ Trưởng bộ môn. Trong suốt quá trình công tác của mình Thầy đã đóng góp gần năm mươi công trình nghiên cứu khoa học trên các tạp chí trong nước và ngoài nước, các tuyển tập của các hội nghị cơ học và cơ học thủy khí toàn quốc. Trong số các đề tài đó phải kể đến: § Xử lí vi khí hậu khu vực lăng chủ tịch Hồ Chí Minh § Qui hoạch và phòng chống lũ hệ thống sông Cả § Tương tác giữa chất lỏng với với vật rắn tuyệt đối biến dạng và đàn hồi § Thành lập bản đồ dự báo ngập lụt tỉnh Thừa thiên huế … Thầy đã tham gia soạn thảo giáo trình, tài liệu tham khảo cho sinh viên và kỹ sư thủy lợi. Điển hình như : § Giáo trình thủy lực dành cho sinh viên tại chức Lào § Dòng tia rối và ứng dụng (Bài giảng cho cao học trường ĐHTL) NGƯT Hoàng Tư An (thứ 3 từ phải sang) NGƯT Hoàng Tư An (thứ 2 từ trái sang) Đặc biệt Thầy còn trực tiếp tham gia soạn thảo “Từ điển Bách khoa nông nghiệp” và “Từ điển Bách khoa Việt Nam”. Với những cống hiến trong lao động khoa học và giảng dạy thầy đã vinh dự được nhà nước phong tặng PGS năm 1991, phong tặng danh hiệu nhà giáo ưu tú năm 1992 và được phong giáo sư năm 1996. Thầy An cũng là người trực tiếp tham gia bồi dưỡng các thế hệ sinh viên thi Olympic Thủy Lực của trường ta góp phần đem lại những chiến thắng vẻ vang cho Thầy trò trường Thủy Lợi trên sân chơi tri thức Quốc gia. Chính vì tâm huyết ấy mà trong 15 lần đi dự thi quốc gia, đội tuyển Olympic Thủy lực đã có 12 giải đồng đội và 65 giải cá nhân. Đặc biệt khóa 43 vừa qua có tới 10/12 sinh viên đạt giải quốc gia môn Thủy lực. Thầy đã kể về những vất vả của các đội tuyển Olympic, ngày trước tuy thiếu thốn nhưng có khá nhiều kỉ niệm đẹp không thể quên trong cuộc đời “một ông giáo”. “Lớp học luyện thi Olympic. Trong một căn phòng nhỏ của trung tâm dịch vụ đời sống, Thầy và trò miệt mài với những định luật và những phương trình thuỷ lực, có nhiều hiện tượng rất đời thường nhưng phải đổ mồ hôi mới có thể tìm hiểu được.. Có khi muỗi cắn vì không khí trong phòng ẩm ướt Thầy trò phải sơ tán liên tục. Và cũng có khi Thầy giảng trò nghe trong một căn phòng mà một bên là nhà bếp, một bên là khu vui chơi và một bên là đường đi lối lại”. NGƯT – GS. Hoàng Tư An (bên trái)
ới những ngày đầu hạ mà cái nóng đã làm cho chúng ta cảm thấy ngột ngạt. Ánh đèn đường vàng nhạt càng làm cho không khí đặc quánh. Chầm chậm qua Ngã Tư Sở ngổn ngang đá sỏi, chúng tôi rẽ vào ngõ nhà Thầy-người Thầy vô cùng đáng kính của biết bao thế hệ sinh viên trường ĐHTL, NGƯT- GS- TS Hoàng Tư An, một cảm giác mát dịu lan toả dần trong tôi. Thầy xúc động và phấn khởi khi gặp lại chúng tôi trong những ngày này, nhà Thầy lúc nào cũng nhiều khách, nhưng với chúng tôi Thầy vẫn dành cho những tình cảm thân thiết. Thầy hỏi thăm tình hình công việc của từng người. Những kỷ niệm của 45 năm về trước lại ào về trong Thầy khi có chúng tôi- những học trò thường xuyên ngồi yên hàng giờ nghe Thầy kể chuyện và đọc những bài thơ Thầy mới sáng tác như ngày nào.
Được ngồi nói chuyện với Thầy chúng tôi mới hiểu hết được tâm tư của những người Thầy- những thế hệ đi trước, những con người hết lòng vì sinh viên. Trên bục giảng Thầy không chỉ muốn truyền đạt cho sinh viên kiến thức mà Thầy còn muốn dẫn dắt, hướng sinh viên trở thành một con người có ích cho xã hội. Ở bất kì hoàn cảnh nào, với những sinh viên từ cá biệt đến xuất sắc Thầy vẫn luôn chỉ bảo tận tình và cho họ những lời khuyên quí báu. Biết bao thế hệ học trò đã được Thầy dìu dắt giờ đây đã thành đạt trong cả cuộc sống gia đình và xã hội, đã là tiến sĩ, giáo sư, nhưng vẫn nhớ những lời khuyên bảo của Thầy. Hàng năm cứ đến dịp 20-11 trong căn nhà nhỏ của Thầy cô lại rộn rã tiếng cười của những cô cậu học trò năm xưa:
“Học Thầy từ thuở năm nao
Đường đời bận rộn vui sao gặp Thầy
Thầy trò tay nắm chặt tay
Tình xưa nghĩa cũ tháng ngày không quên
Thưa Thầy em khoa đầu tiên
Hoa râm mái tóc vẫn quen gọi Thầy”
![]() | ![]() |
Biết bao thế hệ học trò được thầy dìu dắt |
Thưa Thầy Thủy Lực là một môn học rất khó, Thầy đã có bí quyết gì để truyền đạt cho sinh viên hiểu và yêu thích môn học này?
Thầy cho chúng tôi biết:
Với Thầy người giảng viên phải làm thế nào để cho sinh viên biết môn học của mình, hiểu môn học của mình và chỉ cho họ biết đứng ở vị trí nào để học môn học đó. Bên cạnh đó phải biết lắng nghe thấu hiểu, phải có lòng bao dung và gần gũi với sinh viên. Mỗi thế hệ sinh viên các em sẽ có một cái nhìn khác nhau về môn thủy lực nói riêng và các môn chuyên ngành thủy lợi nói chung, nhưng nếu các em biết mình học môn học đó để làm gì và yêu quí nó thì các em sẽ thấy môn học đó rất nhẹ nhàng. Đây cũng chính là lí do tại sao đội tuyển thi Olympic thủy lực của trường ta năm nào cũng có rất nhiều sinh viên nữ tham gia.
Thưa Thầy trong cả cuộc đời gắn bó với mái trườngThủy Lợi, Thầy đã lấy tiêu chí gì để phấn đấu và để đạt được những thành công như ngày hôm nay. Thầy có thể chia sẻ với chúng em về bí quyết đó ?
Thầy không trả lời trực tiếp câu hỏi của chúng tôi mà cười và nói rằng:
Trong cả cuộc đời mình Thầy luôn tâm đắc với bài hát của nhạc sĩ Vũ Trọng Hối
“….. Ta vượt lên đỉnh núi cao trường Sơn
đá mòn mà đôi gót không mòn.
……………………………….
Ta đi trong ánh lửa từ trái tim mình ”
và đây cũng là kim chỉ nam cho cả cuộc đời của Thầy. Vì thế khi làm bất cứ việc gì Thầy cũng làm bằng tất cả nhiệt huyết của mình, không quản ngại khó khăn mà luôn cố gắng hoàn thành tốt công việc đó.
Thầy An là một người khiêm tốn, Thầy sống rất nội tâm.. Đôi khi Thầy thường làm nhiều hơn là nói. Thầy cũng đã đưa ra những lời khuyên cho thế hệ trẻ hôm nay: “Trong cuộc đời ai cũng có một lí tưởng một ước mơ hãy cố gắng hết sức mình để thực hiện ước mơ đó, đặc biệt khi còn là sinh viên hãy biết vượt qua những khó khăn ngày nay, bởi đất nghèo mà tri thức không nghèo”. Có lẽ chính vì vậy mà Thầy An đã luôn luôn động viên khích lệ sinh viên- những thế hệ trẻ trường ta tham gia nhiệt tình vào các phong trào nghiên cứu học tập. Thầy đã tạo điều kiện hết sức để sinh viên của mình tiếp cận được với công nghệ mới. Giúp cho sinh viên phát huy được khả năng của mình. Trong những lớp học trò của thầy có những anh chị đã từng là hội viên cơ học thuỷ khí Việt
“Ta còn nợ với mai sau
Bảng đen, phấn trắng, sông sâu nước tràn ”
<Trích trong bài thơ “Mắc nợ” của Thầy sáng tác
Có những lúc chính những vần thơ của Thầy là những lời khuyên bảo sâu sắc với sinh viên. Và những lời nói ấy không bao giờ phai trong kí ức mỗi lớp học trò của Thầy, cho dù họ có đi đâu làm việc gì trên khắp mọi miền tổ quốc:
“Dẫu đi muôn dặm nghìn trùng
thì lời Thầy dặn vẫn cùng em đi”
Cả một đời gắn bó với khoa học, Thầy An vẫn dành một góc nhỏ tâm hồn mình để viết nên những trang thơ- những giai điệu của cuộc đời mà đôi khi bằng lời nói Thầy không diễn tả được. Thầy yêu thơ, Thầy có thể dùng thơ để nói lên những tình cảm của mình với nghề nghiệp mà Thầy đã lựa chọn, và cũng qua vần thơ ấy Thầy có thể nói lên tình yêu nồng cháy của mình đối với người vợ yêu quí và mái ấm thân thương của mình- những người lặng lẽ bên những thành công trong sự nghiệp của Thầy.
“Hai lăm năm chẵn kết tơ hồng
Thục nữ, hiền thê thoả ước mong
Gió lạnh ù tai đêm khuấy bột
Nắng nung khét tóc buổi xe rong
Vất vả gian nan cùng Thuỷ Lợi
Thuỷ chung trọn vẹn với quê chồng
Công tư hai nửa, hai vai nặng
Trên dưới anh em một chữ đồng”
<Kỉ niệm 25 năm ngày cưới 11/1980 – 11/2005 >
Người bạn đời luôn kề vai sát cánh bên Thầy Tổ ấm nhỏ hạnh phúc
Luôn sát cánh bên chồng, động viên chồng những lúc khó khăn nhất, trong cuộc sống cô Phạm Bích Vân là người phụ nữ luôn hiện diện trong những trang thơ tình của Thầy. Cô hiện đang công tác tại Trung tâm Tin học- một người hết lòng với sinh viên. Cô Vân không chỉ yêu Thầy mà yêu cả sự nghiệp của Thầy. Vì thế đôi khi vì đam mê khoa học Thầy đã vô tình thiếu quan tâm đến Cô, nhưng Cô luôn hiểu, và thông cảm cho Thầy.
“Điều may mắn nhất trong cuộc đời của Thầy là gặp được cô. Người bạn đời đã kề vai sát cánh cùng Thầy trong suốt cuộc đời. Cô luôn động viên khuyến khích và tạo điều kiện cho Thầy hoàn thành công tác và nghiên cứu khoa học. Cô chính là người bạn đồng hành với Thầy và đội tuyển Olympic trong những tháng ngày khó khăn nhất. Thầy rất tự hào về cô, thành quả của Thầy hôm nay phần lớn là nhờ vào công sức của cô đấy các em ạ.” Thầy tâm sự.
Thầy cô có một con trai duy nhất hiện đang theo học cao học chuyên ngành khí tượng thuỷ văn trường ĐH Quốc Gia. Căn nhà nhỏ với cách trang trí cổ kính pha chút hiện đại luôn được sưởi ấm bởi tiếng nói tiếng cười và tình yêu thương giữa những người ruột thịt.
Chia tay với gia đình Thầy cô mà chúng tôi không khỏi lưu luyến. Một người Thầy mà khi nhắc tới các cán bộ giáo viên và sinh viên trường Đại Học Thủy Lợi luôn dành cho Thầy sự tôn kính và khâm phục. Cuộc đời và sự nghiệp của GS.TS NGƯT Hoàng Tư An là một chuỗi tích luỹ các kiến thức về cuộc sống nhưng ẩn sau những trang sách đó là những trang thơ và một tấm lòng yêu nghề, say mê nghiên cứu khoa học. Tôi không biết được mình đã vinh dự được là thế hệ sinh viên thứ bao nhiêu của Thầy, nhưng sự giản dị trong cách sống và một lòng vì các thế hệ sinh viên của Thầy đã để lại trong những lớp sinh viên chúng tôi sự biết ơn sâu sắc về một người Thầy mẫu mực trên bục giảng. Một chân trời mới đang rộng mở với chúng tôi nhưng chúng tôi luôn tự nhủ với mình rằng: cho dù làm công việc gì đứng ở vị trí nào đi nữa chúng tôi vẫn luôn luôn ghi nhớ công lao dìu dắt của các Thầy các cô, những con người luôn tận tụy hết lòng vì sinh viên như Thầy Hoàng Tư An.
“Năm năm nhớ mãi người ơi
Năm năm chung lối một thời sinh viên
Năm năm xây một niềm tin
Năm năm với những muộn phiền mùa thi
Năm năm học được những gi?
Năm năm đựng một lối đi vào đời”
Xin kính chúc Thầy sức khoẻ và tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp đào tạo, nghiên cứu của Trường Đại học Thủy lợi thân yêu.
Vân Khánh và Phạm Thơm thực hiện
(Mọi góp ý xin gửi về điạ chỉ guongmat@wru.edu.vn)