Đại hội Đảng bộ Trường Đại học Thủy Lợi lần thứ IX

ĐẠI HỘI LẦN THỨ IX

 

                        – Ngày đại hội:                           13, 14, 15/11/1970

                        – Đại biểu dự:                            92 đại biểu

Đ/c Hà Kế Tấn – Bí thư Đảng đoàn, Bộ trưởng Bộ Thuỷ lợi về dự Đại hội

                        – Tổng số đảng viên:                   645 đ/c

                        – Số Liên chi Đảng:                    4

                        – Số chi bộ:                               57

                        – Số lượng cấp uỷ:                     12 đ/c

                        – Ban Thường vụ:                       3 đ/c

                        – Cấp công nhận:                       Tỉnh uỷ Hà Bắc

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ

 

1. Trần Bân

2. Nguyễn Đình Thâu

3. Trần Quýnh

4. Lê Thanh Tùng

5. Nguyễn Ngọc Đôn

6. Huỳnh Thanh Hãng

7. Lê Trịnh Kiểm

8. Nguyễn Năng Anh

9. Nguyễn Văn Thành

10. Phạm Bồng

11. Nguyễn Đức Khoan

12. Đoàn Chạy

Bí thư

Phó Bí thư

Uỷ viên Thường vụ

Uỷ viên

           

           

           

           

           

           

           

           

 

CÁC BAN CỦA ĐẢNG UỶ

 

1. Ban Tổ chức

Trần Bân

 

Trưởng ban

2. Ban Tuyên giáo

Lê Thanh Tùng

 

Trưởng ban

3. Ban Đời sống

Nguyễn Ngọc Đôn

 

Trưởng ban

4. Uỷ viên kiểm tra

 Huỳnh Thanh Hãng

 

 

Văn phòng Đảng uỷ

Hoàng Xuân Ánh

Lê Minh Hoài

 

Cán bộ VPĐU

           

 

MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG TRONG NHIỆM KỲ IX

            – Ngày 11/12/1970 Đảng uỷ Trường họp bàn kế hoạch di chuyển khoá 11, Chuyên tu 6T về Hà Nội, quyết định thành lập Ban Di chuyển gồm 8 đ/c. Thời gian di chuyển từ 4/1 đến 20/1/1971.

            – Ngày 5/2/1971 Đảng uỷ Trường họp đề nghị bổ sung đ/c Nguyễn Thị Lan Phương vào Đảng uỷ Trường và đã được Tỉnh uỷ Hà Bắc chuẩn y.

            – Ngày 8/4/1971 Đại hội đại biểu Đảng bộ Trường Đại học Thuỷ lợi có 92 đại biểu dự: Nội dung thảo luận tham gia ý kiến vào Dự thảo Báo cáo của Thành uỷ Hà Nội trình bày tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ V. Bầu đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ Thành phố.

            – Ngày 5/5/1971 Đảng uỷ Trường ra Nghị quyết về việc Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý Nhà trường.

            – Tháng 5/1971 đ/c Lê Trịnh Kiểm – Đảng uỷ viên Trường được cấp trên điều đi công tác C.

            – Tháng 6/1971 Đảng bộ Trường đã triển khai đợt học tập Nghị quyết 19, Kế hoạch 3 năm của 2 Bộ, Phương hướng mục tiêu phát triển kinh tế 3 năm của Thành phố. Trên cơ sở đó Đảng bộ xây dựng Kế hoạch 3 năm (1971-1973) của Trường.

            – Ngày 6/8/1971 Đảng uỷ họp thảo luận triển khai công tác nghĩa vụ quân sự năm 1971 cho khoá 8, khoá 11, khoá 12. Tham gia khám tuyển đợt này có 283 sinh viên.

            – Ngày 19/11/1971 Đảng uỷ họp thảo luận triển khai Chỉ thị 198 của Thủ tướng Chính phủ về công tác quân sự của các ngành và các cơ sở Nhà nước. Đảng uỷ quyết nghị thành lập Ban chỉ huy quân sự gồm 5 đ/c, thành lập Đại đội tự vệ Trường gồm 6 Trung đội trong đó có 1 trung đội tự vệ chiến đấu. Đảng uỷ đề nghị Thành uỷ cho kéo dài nhiệm kỳ Đảng bộ Trường đến sau hè khi bắt đầu năm học mới.

            – Ngày 12/2/1972 Thành uỷ Hà Nội có Công văn số 11CV/TU chuẩn y kéo dài nhiệm kỳ Đảng bộ Trường. Ngày 10/4/1972 Đảng uỷ Trường triệu tập Hội nghị cấp uỷ mở rộng thảo luận thông qua Báo cáo kiểm điểm sơ bộ tình hình từ Đại hội IX đến nay và Phương hướng công tác của Đảng bộ đến Đại hội lần thứ X.

            – Tháng 4/1972 giặc Mỹ leo thang đánh phá ác liệt. Trường sơ tán cấp tốc về Hà Tây, tháng 6/1972 Trường sơ tán lên Hiệp Hoà và Việt Yên (Hà Bắc). Trong hai ngày 9 và 10/8/1972 Thường vụ Đảng uỷ đã họp thảo luận thông qua một số chủ trương biện pháp để lãnh đạo hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của Nhà trường trong tình hình mới.

            – Sau Hiệp định Pa-ri ngày 27/1/1973 về “Chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam. Tháng 2/1973, toàn Trường di chuyển về Hà Nội và nhanh chóng ổn định giảng dạy, học tập và công tác.

            – Ngày 2/5/1973 Đảng uỷ Trường đã ra Nghị quyết về cuộc vận động bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công nhân viên Nhà trường.

            – Công tác xây dựng Đảng, tháng 11/1971 Đảng bộ đã sơ kết 1 năm cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh, đã kết nạp được 34 đảng viên lớp Hồ Chí Minh trong đó có 23 sinh viên. Kết quả phân loại đảng viên có 69,7% đảng viên phấn đấu tốt; 30,3% đảng viên phấn đấu chưa tốt trong số này có 3,1% thuộc loại kém. Việc giữ gìn khối đoàn kết thống nhất nội bộ Đảng là vấn đề hết sức quan trọng, nhưng thời gian qua chưa được quan tâm đúng mức. Nội bộ của Thường vụ Đảng uỷ và Đảng uỷ có lúc thiếu đoàn kết có ảnh hưởng đến sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ, qua kiểm điểm phê bình và tự phê bình thấy đó là một thiếu sót lớn, là do không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ tự phê bình, phê bình, chưa thấy hết trách nhiệm của mình chăm lo xây dựng khối đoàn kết thống nhất nội bộ, là do chủ nghĩa cá nhân chi phối, sinh ra kèn cựa địa vị, nghi ngờ nhau, thiếu tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau… Kết quả đợt tự phê bình và phê bình Đảng uỷ đã thông báo toàn Đảng bộ (). Đây là một bài học thấm thía về xây dựng khối đoàn kết thống nhất – yếu tố cực kỳ quan trọng mà mỗi đảng viên và toàn Đảng bộ phải có trách nhiệm vun đắp giữ gìn.

            – Nét nổi bật trong lãnh đạo công tác chuyên môn là: Trong điều kiện đất nước bị lũ lụt lớn (1971), giặc Mỹ leo thang đánh phá ác liệt (1972); Trường phải di chuyển sơ tán có nhiều khó khăn; quá trình học tập qua các đợt tuyển quân số học sinh đi bộ đội phần lớn là học sinh khá giỏi, lại phục vụ nhiều công tác đột xuất… nhưng đã duy trì được công tác đào tạo theo chương trình và giữ vững được chất lượng đào tạo không bị giảm sút so với các năm trước. Đây là một cố gắng rất lớn của Trường (2). Kết quả tốt nghiệp đạt 96,5% trong đó khá giỏi 12,4%. Nhà trường đã mở Hội nghị dạy tốt, học tốt, có 45 báo cáo kinh nghiệm dạy tốt, 59 báo cáo kinh nghiệm học tốt; đã chọn được 16 giáo viên dạy tốt và 20 học sinh giỏi; về giáo trình đã có trên 50 loại giáo trình đủ cho từ 1 đến 2 học sinh 1 cuốn. Tham gia lao động hàn khẩu đê Nhất Trai, đại tu cống Liên Mạc, đắp đê đầu cầu Đuống, đầu cầu Bắc Giang với 56737 ngày công, tham gia chiến đấu 12 ngày đêm chống B52 giặc Mỹ… Công tác bồi dưỡng cán bộ đã cử đi nghiên cứu sinh 20 người; học chính trị dài hạn 3 người, ngắn hạn 5 người.

 

(), (2) Báo cáo trình bày trước Đại hội Đảng bộ Trường Đại học Thuỷ lợi lần thứ X (6/1973)

 

(nguồn VP Đảng ủy)