Định hướng xây dựng chiến lược phát triển Trường Đại học Thuỷ Lợi

Trong suốt 45 năm qua, nhiều thế hệ cán bộ, giáo viên, công nhân viên và học sinh nhà trường đã vượt qua nhiều khó khăn  gian khổ kể cả những năm tháng chiến tranh ác liệt với nhiều hy sinh mất mát, đã vươn lên hoàn thành xuất sắc sứ mệnh cao cả của mình, là đào tạo cho đất nước nhiều thế hệ kỹ sư, thạc sỹ, tiến sỹ, với tư duy sáng tạo, mang trong mình tấm lòng yêu nước nồng nàn sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến. Họ đã đến nhiều vùng xa xôi hẻo lánh, xây dựng nên những công trình thế kỷ, đã chiến đấu dũng cảm trên nhiều chiến trường, nhiều người đã hy sinh cả tuổi thanh xuân cho đất nước. Ngày nay trong lao động hoà bình họ vẫn được xã hội đón nhận và chính họ đang nỗ lực làm tròn bổn phận của mình phụng sự đất nước, phục vụ Nhân dân. Những điều đó đã tạo tiền đề cho Nhà trường chúng ta được vinh dự đón nhận những phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước phong tặng.


                Tuy nhiên, do yêu cầu phát triển, nhất là quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế trong một nền kinh tế mang tính toàn cầu, đòi hỏi chúng ta không thể thoả mãn với những gì đã làm được, mà phải phấn đấu vươn lên ngang tầm với đòi hỏi của sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội và khoa học, công nghệ của đất nước.


Nhân dịp này tôi xin phép được bày tỏ một vài định hướng trong xây dựng chiến lược phát triển trường ĐH Thuỷ lợi đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 để chúng ta cùng suy nghĩ, thảo luận và xây dựng, không ngừng phấn đấu để đưa nhà trường của chúng ta luôn xứng đáng với truỳên thống của mình và trở thành một trường tiên tiến trong khu vực.


1.   BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC


 Sự phát triển nhảy vọt của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và tryền thông, nhân loại đang bước đầu quá độ sang nền kinh tế tri thức. Trên bối cảnh đó, triết lý giáo dục cho thế kỷ 21 có những biến đổi to lớn, đó là lấy “học thường xuyên, học suốt đời” làm nền tảng và mục tiêu của học tập là “học để biết, học để làm,  học để cùng chung sống với nhauhọc để làm người”.


 Hội nhập và toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu, đem lại cho chúng ta những cơ hội và thách thức, mà thách thức lớn nhất là không để tụt hậu với khoảng cách ngày càng xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới.


 Giáo dục đào tạo đang là vấn đề được toàn xã hội quan tâm. Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục đào tạo nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm, vì con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển kinh tế xã hội.


Vì vậy, trước hết chúng ta phải thống nhất quan niệm giáo dục đại học chủ yếu là đào tạo người lao động có trình độ cao, hay nói đúng hơn là trang bị cho họ sức lao động đủ sức cạnh tranh trong thị trường hàng hóa-sức lao động. Do vậy trong đào tạo, trường ta phải quan tâm nhiều hơn nữa những yêu cầu của người kỹ sư sau khi ra trường như: trình độ tác nghiệp, các kỹ năng công cụ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng cá nhân (trước đây chúng ta còn thiên nhiều về lý thuyết, nhẹ về thực hành và bỏ qua các kỹ năng cá nhân)…


Phải tiếp tục giữ vững và có những biện pháp cụ thể để thực hiện có hiệu quả phuơng châm: lấy người học làm trung tâm, lấy chất lượng đào tạo làm cốt lõi, lấy hiệu quả phục vụ kinh tế-xã hội làm mục tiêu, lấy xu thế của thời đại để định hướng tiếp cận.


Về công tác phát triển thuỷ lợi: chúng ta phải tiếp tục kiên định với quan điểm mới phù hợp với xu thế của thời đại là: Phát triển bền vững và quản lý tổng hợp tài nguyên nước. Nước không chỉ là một dạng tài nguyên mà còn là Hàng hoá Kinh tế-xã hội đặc biệt.


2.   CÁC MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA TRƯỜNG ĐH THUỶ LỢI


 – Cung cấp đầy đủ nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao và năng lực thực tiễn đáp ứng nhu cầu phát triển ngành nước hiện tại và tương lai ở Việt Nam về số lượng, chất lượng nước và về quản lý sử dụng tài nguyên nước phù hợp với mục tiêu phát triển chung của Quốc gia bao gồm phát triển kinh tế – xã hội, phát triển bền vững và xoá đói giảm nghèo.


– Chủ động hội nhập quốc tế, tăng cường trao đổi chuyển gia và cán bộ giảng dạy, đẩy mạnh liên thông, liên kết đào tạo với các nứơc trong khu vực và quốc tế, phấn đấu để khẳng định là một trường đại học, một trung tâm khoa học tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á.


3. NHỮNG KẾT QUẢ CẦN ĐẠT ĐƯỢC CỦA CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN


·       Đánh giá nhu cầu về nhân lực trong bối cảnh 10 năm  sắp tới đối với các lĩnh vực phát triển tư nhân và nhà nước, và bán tư nhân và nhà nước. Việc đánh giá nhu cầu nhân lực này sẽ xem xét kỹ về các khía cạnh quản lý có liên quan đến tài nguyên nước và cung cấp các dịch vụ về nước trong bối cảnh của một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc đánh giá này sẽ là bước khởi đầu trong các định hướng quy hoạch chiến lược và dự báo của các Bộ: NN & PTNT, Tài Nguyên và Môi Trường,  Giáo Dục và Đào Tạo, các cơ quan chính quyền có liên quan khác như các UBND các tỉnh và thành phố ở Việt nam, và các bộ ngành liên quan không chỉ đối với việc cấp nước sạch, tưới tiêu, công nghiệp, vệ sinh môi trường, mà còn có cả việc quản lý môi trường sinh thái nước.


·       Phải trả lời một câu hỏi quan trọng là trường chúng ta sẽ là một trường chuyên ngành mở rộng hay là một trường đa ngành theo đúng nghĩa của nó theo xu hướng chung của các trường trong khu vực và thế giới hiện nay. Trường chúng ta sẽ có bao nhiêu ngành, bao nhiêu ngành mới sẽ được mở, thời gian thích hợp để mở cho mỗi ngành mới.


·       Phân tích đánh giá về sự cần thiết cho việỗnây dựng các khung chương trình và giáo trình, bài giảng cho các chương trình giảng dạy hiện có và mới được đưa vào tại các cấp đào tạo Kỹ sư, Thạc sỹ, Tiến sỹ, nhằm đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế-xã hội của nước ta, một nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là, sau khi ra trường người học có khả năng tự cập nhật kiến thức mới, có khả năng tự chuyển đổi nghề nghiệp, tự tìm kiếm việc làm trong thị trường sức lao động, tự tạo ra việc làm mới cho mình và cho người khác.


·        Đánh giá yêu cầu về đổi mới, nâng cao phương pháp giảng dạy như nhóm thảo luận, phòng học chuyên dụng…, theo hướng giảm số giờ lên lớp nghe giảng, tăng quỹ thời gian tự học, tự đọc sách, tự nghiên cứu, làm bài tập và tăng thời gian thực hành. Phải rèn luyện cho sinh viên một nền nếp tự học, tự suy nghĩ và tìm tòi sáng tạo.


·       Phân tích đánh giá về nhu cầu phát triển đội ngũ cán bộ giảng dạy. Việc phân tích bao gồm cả xem xét về nâng cao năng lực của cán bộ giảng dạy hiện có, kế hoạch tuyển chọn mới thay thế lớp cán bộ đã cao tuổi nhằm lấp khoảng trống về nhân lực, tạo mối quan hệ gắn bó giữa giáo viên với sinh viên tạo điều kiện cho giáo viên có thể triển khai tốt các hoạt động nghiên cứu cần thiết. Đề suất phương hướng xây dựng và đào tạo đội ngũ giảng viên đáp ứng được yêu cầu của một trường đại học đầu ngành về lĩnh vực tài nguyên nước, ngang tầm với các nước trong khu vực Đông Nam Á về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, khả năng tổng hợp, phát triển trí tuệ và đặc biệt là một đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong các bộ môn, chuyên ngành của nhà trường. 


·       Phân tích đánh giá về sự cần thiết cho việc đẩy mạnh các nghiên cứu cơ bản và ứng dụng: các định hướng nghiên cứu và các lĩnh vực cấp thiết và các nhu cầu nhân lực.


·       Phân tích đánh giá về yêu cầu nhân lực và cơ sở hạ tầng để triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học ở mức độ khu vực và quốc tế.


·       Phân tích đánh giá nhu cầu hợp tác với các trường, viện, cơ quan trong nước và quốc tế về công tác giảng dạy, nghiên cứu và triển khai các thành tựu khoa học.


·       Phân tích đánh giá về nhu cầu nâng cao năng lực quản lý của Trường ĐHTL. Người cán bộ quản lý trong trường phải là người phải tâm huyết với nghề, tâm huyết với công tác đào tạo, có năng lực chuyên môn, ngoài ra phải có năng lực quản lý, năng lực tổ chức thực hiện.


·       Phân tích đánh giá về nhu cầu nâng cao quản lý chất lượng tại Trường ĐHTL, xây dựng một hệ thống đảm bảo chất lượng và tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế nhằm đảm bảo cho các kỹ sư được đào tạo tốt nhất phục vụ lĩnh vực tài nguyên nước trong tương lai.


·       Đánh giá nhu cầu về cơ sở vật chất như: phòng học, phòng hội thảo, phòng làm việc của giảng viên, thư viện các phòng thí nghiệm và các thiết bị chuyên dùng, và cuối cùng là các tiện nghi của nhà nội trú cho sinh viên. Trên cơ sở đó đề xuất mở rộng cơ sở hiện  và tính được nhu cầu về kinh phí theo từng giai đoạn cụ thể.


Chiến lược phát triển của nhà trường là hướng đi và có ý nghĩa rất quyết định đến chất lượng đào tạo của nhà trường trong những năm tới, tạo điều kiện để chúng ta chủ động hoà nhập với các nước trong khu vực. Mọi hoạt động từ xây dựng ngành nghề, chương trình đào tạo, giáo trình, giáo án, phương pháp giảng dạy, nghiên cứu khoa học, phục vụ sản xuất và hợp tác quốc tế đều cần phải dựa theo chiến lược phát triển đã xây dựng.


Với ý nghĩa quan trọng đó, từ tuần sau 4 đoàn cán bộ giáo viên của Nhà trường sẽ đi tham quan học tập ở 6 nước, bắt đầu thực hiện tiến trình xây dựng chiến lược phát triển của trường ĐH Thuỷ lợi. Đảng uỷ và Ban giám hiệu Nhà trường quyết tâm xây dựng xong chiến lược phát triển vào tháng 2 năm 2006 và hy vọng sẽ được Bộ phê duyệt vào tháng 3 năm 2006. Thời gian để thực hiện còn rất ngắn, tôi tha thiết đề nghị các đồng chí dù ở cương vị công tác nào hãy suy nghĩ về những nội dung của bản chiến lược phát triển của Nhà trường, góp ý trong quá trình xây dựng, để bản chiến lược phát triển của Nhà trường thật sự có ý nghĩa thiết thực đối với mỗi người trong chúng ta, những người đã, đang và sẽ cống hiến cả cuộc đời công tác của mình cho mái trường thân yêu và tự hào của chúng ta.


 



   HIỆU TRƯỞNG        


                                      


  GS. TS ĐÀO XUÂN HỌC