Giáo sư, Tiến sỹ Đào Xuân Học:”Ngành Thủy lợi đã làm được nhiều việc, nhưng cũng còn nhiều việc phải làm…”

( Phỏng vấn Giáo sư, Tiến sỹ Đào Xuân Học – Thứ trưởng Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn,


Chủ tịch Hội Thuỷ lợi Việt Nam, nhân kỷ niệm 64 năm ngày truyền thống ngành Thuỷ lợi Việt Nam)


                                                                                           HÀ QUANG thực hiện


PV:  Thưa Giáo sư, Tiến sỹ Đào Xuân Học! Sắp tới ngày 28 tháng 8 năm 2009 –  kỷ niệm 64 năm ngày truyền thống của ngành Thuỷ lợi Việt Nam – một ngành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Xin ông cho biết vai trò của ngành Thuỷ lợi đối với sự phát triển của đất nước, đặc biệt là đốí với nông nghiệp, nông thôn và nông dân?


GS.TS Đào Xuân Học: Trước hết phải nói rằng: Ngành thủy lợi có vai trò rất lớn trong nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy, ngay từ ngày hoà bình lập lại Đảng và Chính phủ luôn quan tâm đầu tư cho hệ thống công trình Thuỷ lợi, cùng với đội ngũ cán bộ được đào tạo bài bản, tâm huyết với nghề… do vậy, trong thời gian qua công tác thủy lợi có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển bền vững trong tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội, góp phần quan trọng vào công cuộc xoá đói giảm nghèo và thay đổi bộ mặt nông thôn như ngày nay. Cho đến nay, các hệ thống công trình thủy lợi trực tiếp tưới cho 3,45 triệu ha; tạo nguồn cấp nước cho 1,13 triệu ha; tiêu nước, thoát nước chống úng ngập cho các đô thị, thành phố, làng mạc và cho 1,4 triệu ha canh tác; ngăn mặn 0,87 triệu ha và cải tạo chua phèn 1,6 triệu ha đất canh tác nông nghiệp. Ngoài ra còn cấp hơn 5 tỷ m3 nước /năm cho sinh hoạt và các ngành kinh tế khác, nâng tỉ lệ cấp nước hợp vệ sinh lên 75% tính hết năm 2008. Trong công tác phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai, trong thời gian qua cũng nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, đã đầu tư nhiều công trình hồ chứa lớn thượng nguồn tham gia chống lũ cho hạ du; nhiều hệ thống đê sông, đê biển được nâng cấp và xây mới góp phần giảm số người chết và thiệt hại kinh tế đặc biệt đối với các tỉnh đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long. Đúng như Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng đã chỉ đạo: Việt nam là đất nước nằm ở vùng có nhiều thiên tai thì quy hoạch thuỷ lợi cần được xem như là một quy hoạch nền cho các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội khác.









GS.TS Đào Xuân Học trả lời phỏng vấn của PV Tạp chí Tài nguyên nước


    PV: 
Ghi nhận ngành Thuỷ lợi Việt Nam đã có những đóng góp rất to lớn, điều đó ai cũng biết, nhưng cụ thể những thành tựu cơ bản về tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, về phòng chống giảm nhẹ thiên tai, về cấp nước sinh hoạt.v.v.như thế nào?


GS.TS Đào Xuân Học: Vâng, đến nay cả nước đã xây dựng được: 111 hệ thống thủy lợi có diện tích tưới tiêu ³ 2.000 ha, 76 hệ thống có diện tích ³ 4.000 ha, 67 hệ thống thuỷ lợi có diện tích ³ 5.000 ha; với 1967 hồ chứa (có dung tích ³ 0,2 triệu m3); hơn 5.000 cống tưới, tiêu lớn; trên 10.000 trạm bơm lớn và vừa (trong đó trên 2.000 trạm bơm lớn) với tổng công suất bơm 24,8 triệu m3/h và hàng vạn công trình vừa và nhỏ khác có năng lực thiết kế tưới 3,45 triệu ha đất canh tác, tạo nguồn 1,13 triệu ha, tiêu 1,4 triệu ha (Anh biết đấy, trước năm 1945 cả nước chỉ có 13 hệ thống công trình thuỷ nông loại lớn và 600 km kênh chính, chỉ cấp và tạo nguồn nước tưới được cho 1,4 triệu ha). Bên cạnh đó đã xây dựng 5.700 km đê sông ; 3.000 km đê biển; 23.000 km bờ bao, hàng ngàn cống dưới đê, hàng trăm km kè và các hồ chứa lớn ở thượng lưu tham gia chống lũ cho hạ du…Nhờ vậy, hiệu quả của các công trình là rất lớn, có thể nêu những hiệu quả nổi bật là:


– Tăng diện tích tưới lúa, góp phần tăng năng suất và ổn định sản lượng lúa, đảm bảo an ninh lương thực và góp phần xuất khẩu . Diện tích lúa được tưới hàng năm đạt 6,85 triệu ha, rau màu và cây công nghiệp khoảng 1 triệu ha; sản lượng lúa năm 2007 là 35,85 triệu tấn, xuất khẩu một vài năm gần đây đạt 3,5-4 triệu tấn, tạo điều kiện đa dạng hoá cây trồng và vật nuôi chuyên canh như: lúa ngô ở đồng bằng sông Cửu long và sông Hồng; cao su cà phê ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên; chè và đồng cỏ ở trung du miền núi Bắc bộ, Tây Nguyên, Trung bộ, nuôi trồng thuỷ sản ở vùng ĐBSCL; mở rộng diện tích làm muối: 12.260ha (2007)…Giá trị sản lượng nông nghiệp trên một ha canh tác tăng từ 14,5 triệu (2000) lên đến 25 triệu, có nơi trên 100 triệu đồng.


– Góp phần giảm nhẹ do thiên tai (lũ lụt, úng hạn, sạt lở,…) bảo vệ tính mạng, sản xuất, cơ sở hạ tầng, hạn chế dịch bệnh . Hệ thống đê sông cấp III trở lên ở Bắc bộ đảm bảo chống lũ với mực nước 13,1 m tại Hà Nội, đê biển ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ có thể ngăn mặn và triều tần suất 10% gặp bão cấp 9, hệ thống đê và bờ bao ở Trung Trung bộ và ĐBSCL có thể chống lũ sớm, lũ tiểu mãn bảo vệ sản xuất vụ Hè thu và Đông Xuân. Các hồ chứa lớn và vừa ở thượng lưu đã tham gia cắt lũ rất hiệu quả. Các công trình chống lũ nói chung đã bảo vệ cho hàng chục triệu dân và hàng triệu ha canh tác ở các vùng thường bị lũ lụt, các hoạt động kinh tế được duy trì, giảm được tổn thất do bão lũ gây ra…


Tôi xin nói thêm là: Ngoài việc cấp hơn 5 tỷ m3  nước thô hàng năm như đã nói ở trên, các công trình cấp nước sinh hoạt khác đã đảm bảo cung cấp nước hợp vệ sinh cho 75% dân số nông thôn với 60ls/người.ngày đêm, cải thiện đời sống sinh hoạt hàng ngày của nông dân, đặc biệt ở vùng lũ sông Cửu Long, khô hạn ở miền Trung, vùng núi đá vôi ở Cao Bằng, Hà Giang… Nhờ các công trình thuỷ lợi nên nhiều vùng khi xưa ngập úng “chiêm khê, mùa thối”, chua phèn quanh năm, nay đã sản xuất được 2 vụ, cơ sở hạ tầng được cải thiện như: Bắc Nam Hà, Nam Yên Dũng, Bắc Hưng Hải, Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên; nhiều vùng khô hạn đã có nước tưới như Ninh Thuận, Bình Thuận; thậm chí nhiều hệ thống thuỷ lợi là trục tiêu thoát nước cho các thành phố và đô thị. Hệ thống thuỷ lợi và đê điều đã góp phần hình thành mạng lưới giao thông quan trọng của vùng nông thôn nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long…Trong những năm qua, ngành Thuỷ lợi đã làm được nhiều việc, nhưng cũng còn nhiều việc phải làm lắm…


PV: Trước tác động của biến đổi khí hậu đến nông nghiệp -nông thôn, ngành Thuỷ lợi đã và sẽ làm gì để giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu?


GS.TS Đào Xuân Học: Theo tôi, nếu nói đầy đủ thì phải đề cập đến 2 yếu tố quan trọng đòi hỏi ngành Thuỷ lợi phải có cách nhìn mới, phương pháp luận mới, đó là:


Quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá trong giai đoạn vừa qua đã làm thay đổi cơ bản yêu cầu cấp nước và tiêu nước cho các hệ thống thuỷ lợi ở ĐBSH. Về cấp nước, mặc dù diện tích canh tác ở ĐBSH giảm hơn 200.000ha nhưng nhu cầu cấp nước tăng gần gấp 2 lần, do nhu cầu cấp nước cho công nghiệp, sinh hoạt, du lịch dịch vụ và cải tạo môi trường đều tăng và đều lấy nước từ các công trình thuỷ lợi. Diện tích đô thị hoá và công nghiệp hoá tăng lên dẫn đến nhu cầu tiêu nước tăng nhanh.Theo tính toán sơ bộ, nếu diện tích đô thị hoá và công nghiệp hoá tăng khoảng 15% thì lưu lượng cần tiêu phải gia tăng gấp đôi, như vậy các công trình tưới tiêu đã xây dựng trước đây đều không đáp ứng đủ yêu cầu tưới tiêu trong tình hình mới, chưa nói đến tác động do biến đổi khí hậu.


Biến đổi khí hậu sẽ tạo ra các trạng thái khí hậu cực đoan, thiên tai sẽ xuất hiện nhiều hơn, không tuân theo quy luật thường có, đặc biệt vấn đề nước biển dâng sẽ trở thành thách thức lớn đối với Việt Nam. Theo tính toán sơ bộ, nếu nước biển dâng lên 1m sẽ làm ngập khoảng từ 0,3 đến 0,5 triệu ha tại Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và những năm lũ lớn khoảng trên 90% diện tích của ĐBSCL bị ngập từ 4-5 tháng, vào mùa khô khoảng trên 70% diện tích bị xâm nhập mặn với nồng độ lớn hơn 4g/l. Ước tính Việt Nam sẽ mất đi khoảng 2 triệu ha đất trồng lúa trong tổng số hơn 4 triệu ha hiện nay, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực quốc gia và ảnh hưởng đến hàng chục triệu người dân. Mưa tập trung trong thời gian ngắn, lũ lụt, hạn hán kéo dài; tần suất xuất hiện nhiều hơn, sự an toàn của các hồ chứa bị đe doạ. Hệ thống đê biển hiện tại có nguy cơ tràn và vỡ đê ngay cả khi không có các trận bão lớn. Ngoài ra, do mực nước biển dâng cao làm chế độ dòng chảy ven bờ thay đổi gây xói lở bờ. Đối với hệ thống đê sông, đê bao và bờ bao, mực nước biển dâng cao làm cho khả năng tiêu thoát nước ra biển giảm, kéo theo mực nước các con sông dâng lên, kết hợp với sự gia tăng dòng chảy lũ từ thượng nguồn sẽ làm cho đỉnh lũ tăng thêm, uy hiếp sự an toàn của các tuyến đê sông ở các tỉnh phía Bắc, đê bao và bờ bao ở các tỉnh phía Nam.  Các công trình tiêu nước vùng ven biển hiện nay hầu hết đều là các hệ thống tiêu tự chảy; khi mực nước biển dâng lên, việc tiêu tự chảy sẽ hết sức khó khăn, diện tích và thời gian ngập úng tăng lên tại nhiều khu vực. Nước biển dâng làm mặn xâm nhập sâu vào nội địa, các cống hạ lưu ven sông sẽ không có khả năng lấy nước ngọt vào đồng ruộng. Các thành phố ven biển bị ngập úng do triều như: TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau, Hải Phòng, Trà Vinh. Khu vực thấp ven biển bị ngập triều gây mặn nặng như: Bến tre, Cà Mau. Chế độ dòng chảy sông suối thay đổi theo hướng bất lợi, các công trình thuỷ lợi sẽ hoạt động trong điều kiện khác với thiết kế, làm cho năng lực phục vụ của công trình giảm… Tất cả những điều đó đặt ra cho Ngành ta những nhiệm vụ hết sức nặng nề. Tôi xin nhấn mạnh rằng, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã và đang tổ chức triển khai nhiều chương trình dự án nhằm giảm thiểu và thích ứng với BĐKH, cụ thể là:


– Bộ NN&PTNT đã thành lập Ban chỉ đạo và Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo chương trình hành động thích ứng với biến đổi khí hậu. Bộ đã xây dựng, công bố và hướng dẫn khung chương trình hành động ứng phó với biến đổi khí hậu ở các đơn vị thuộc Bộ và địa phương để thực hiện;


– Từng bước nghiên cứu, lồng ghép vào việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho công tác phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với BĐKH;


– Từng bước kiện toàn bộ máy tổ chức và tăng cường năng lực, trang thiết bị, cơ sở vật chất cho công tác chỉ đạo, chỉ huy phòng, chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai và tìm kiếm cứu nạn từ Trung ương đến các địa phương;


– Xây dựng và triển khai thực hiện  một số chương trình, dự án liên quan đến phòng, chống lụt, bão giảm nhẹ thiên tai, trong bối cảnh có sự BĐKH ứng với từng giai đoạn như:


+ Rà soát, bổ sung Chương trình nâng cấp đê biển từ Quảng Ninh đến Quảng Nam;


+ Xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang có xem xét trong điều kiện BĐKH và nước biển dâng, trong đó trồng rừng bảo vệ phía trước đê rộng từ 500 đến 1000m, bố trí hệ thống giao thông trong đê và hệ thống cống ngăn triều, ngăn mặn, đất lưu không để nâng cao đê khi nước biển dâng;


+ Đang xây dựng Chương trình nâng cấp đê sông trong tình hình mới;


+ Đang thực hiện quy hoạch tổng thể thủy lợi ĐBSCL, Đồng bằng sông Hồng, miền Trung trong điều kiện BĐKH và nước biển dâng;


+ Xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch chống ngập úng cho một số thành phố lớn có xem xét yếu tố BĐKH như: TP. Hồ Chí Minh, TP. Hà Nội. Đang triển khai lập quy hoạch chống ngập úng cho TP.Cần Thơ, TP.Cà Mau, TP.Hải Phòng.v.v. trong điều kiện BĐKH, nước biển dâng.


+ Đang lập Dự án chống xâm nhập mặn – nước biển dâng cho vùng Bắc Bến Tre.


– Chính phủ đã phê duyệt đề án nâng cao nhận thức cộng đồng và quản dựa vào cộng đồng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức của cộng đồng trong phòng chống giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với BĐKH;


– Rà soát, sửa đổi tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật xây dựng công trình thuỷ lợi thích ứng với BĐKH.


PV: Thế còn vai trò, nhiệm vụ của Hội Thuỷ lợi Việt Nam trong tình hình hiện nay? Hội đã làm gì để thiết thực chào mừng ngày truyền thống của ngành Thuỷ lợi Việt Nam, thưa đồng chí Chủ tịch?


GS.TS Đào Xuân Học: Trước hết, tôi xin nói rằng, Hội Thuỷ lợi Việt Nam là một tổ chức xã hội nghề nghiệp của các tập thể, các cá nhân làm công tác quản lý, tư vấn, nghiên cứu khoa học; là nơi tập hợp trí tuệ của các chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực Thuỷ lợi…Hội có nhiệm vụ rất lớn và cũng rất nặng nề trong việc tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về khoa học công nghệ cho hội viên; tham gia nghiên cứu, tư vấn, phản biện, góp ý vào việc hoạch định các chủ trương, chính sách cơ chế và chiến lược về quản lý thống nhất, tổng hợp tài nguyên nước; ứng dụng vào sản xuất các tiến bộ khoa học, công nghệ về thuỷ lợi – thuỷ điện, về khai thác tài nguyên nước phục vụ các nhu cầu phát triển dân sinh, kinh tế, an ninh – quốc phòng. Ngoài ra, Hội cũng có nhiệm vụ hết sức quan trọng là thực hiện hợp tác với các cơ quan, các tổ chức trong và ngoài nước thuộc lĩnh vực chuyên môn thuỷ lợi – thuỷ điện, khai thác tổng hợp tài nguyên nước, bảo vệ môi trường nước theo quy định của pháp luật.v.v. Như nhà báo đã biết, trong tình hình hiện nay, ngành Thuỷ lợi đang gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là thách thức trước tác động của biến đổi khí hậu, Hội Thuỷ lợi Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, Ngành từng bước tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và Chính phủ…


Hướng tới kỷ niệm 64 năm ngày truyền thống của ngành Thuỷ lợi Việt Nam, thời gian qua, Hội đã đóng góp nhiều ý kiến có giá trị cho Chiến lược phát triển thuỷ lợi đến năm 2020; tập trung trí tuệ tham gia tích cực vào việc rà soát xây dựng quy chuẩn và chỉnh sửa Tiêu chuẩn thiết kế của ngành; tham gia công tác tư vấn phản biện, thẩm tra nhiều dự án; đóng góp một phần quan trọng trong các dự án lớn như: Quy hoạch chống ngập úng cho TP Hồ Chí Minh, quy hoạch chỉnh trị sông Hồng đoạn qua Hà Nội.v.v. Đặc biệt, trong thời gian qua, Hội đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam thực hiện Nghị quyết “Tam nông” của Chính phủ về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tích cực nghiên cứu, tham gia đóng góp ý kiến một cách nghiêm túc và có hiệu quả vào các Đề án xây dựng nông thôn mới và Bộ Tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, được Ban chỉ đạo chương trình của Bộ Nông nghiệp và PTNT đánh giá cao…Tuy nhiên, chúng tôi cũng thấy cần phải tăng cường nghiên cứu, tập trung trí tuệ của hội viên để tham gia đóng góp nhiều hơn nữa các ý tưởng về quy hoạch thuỷ lợi, chiến lược phát triển thuỷ lợi và các nhiệm vụ quan trọng khác của ngành trong tình hình mới. 


PV: Xin cảm ơn Giáo sư, Tiến sỹ. Chúc sức khoẻ đồng chí và gia đình!


                                                                                                                 H.Q