LŨ LỤT Ở MIỀN TRUNG – Nỗi lo không chỉ của riêng ai






Báo cáo đề tài tại Hội trường 223-ĐH Thủy Lợi

 

Miền Trung đẹp là thế, anh hùng là thế nhưng chịu nhiều sự khắc nghiệt của thời tiết mà ảnh hưởng lớn nhất là lũ lụt, hạn hán. Nhìn chung năm nào thiên tai lũ lụt cũng xảy ra ở miền Trung, năm thì ở tỉnh này, năm thì ở tỉnh khác, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và của cải của nhân dân và làm ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của cộng đồng.


Chính phủ Việt Nam với sự giúp đỡ của các tổ chức Quốc tế đã xây dựng và soạn thảo ‘Chiến lược và chương trình hành động quốc gia giảm nhẹ thiên tai ở Việt Nam” trong đó có đề cập đến việc giảm nhẹ thiên tai lũ lụt ở khu vực miền Trung. Thêm vào đó đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu khoa học từ nguồn vốn của Chính phủ về lũ bão và giảm nhẹ thiên tai lũ lụt ở miền Trung. Tuy nhiên đây là một vấn đề lớn, phức tạp, đòi hỏi phải nghiên cứu từ nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau của vấn đề, vì vậy Bộ Nông nghiệp và PTNT đã đầu tư và lựa chọn Trường Đại học Thủy Lợi thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học Nghiên cứu giải pháp thoát lũ cho một số sông lớn miền Trung nhằm bảo vệ các khu kinh tế tập trung, các khu dân cư ven sông, dọc quốc lộ”.  Đây là một đề tài nghiên cứu đặc điểm lũ lụt miền Trung tìm ra các giải pháp nhằm giảm thiểu thiên tai lũ lụt giúp phát triển kinh tế – xã hội. Đề tài đã nghiên cứu và chọn hai lưu vực sông Thạch Hãn – Quảng Trị và sông Kôn-Hà Thanh tỉnh Bình Định để nghiên cứu điển hình.


Ban chủ nhiệm đề tài đã đưa ra những mục tiêu chính gồm: Đánh giá thực trạng thoát lũ các l­ưu vực sông vùng nghiên cứu kể cả ven sông và đ­ường quốc lộ 1A. Xác định đư­ợc nguyên nhân ngập lụt, chậm lũ khu vực nghiên cứu; Kiến nghị giải pháp thoát lũ ổn định lòng sông ; Kiến nghị mức độ chống lũ ; Kiến nghị giải pháp khắc phục, giảm nhẹ ngập lụt khu dân cư và khu kinh tế tập trung, ven sông, ven đường ­quốc lộ 1A ;  Dự báo ngập lụt, xói bồi.


PGS.TS Lê Văn Nghinh – Trường Đại học Thủy lợi – Chủ nhiệm đề tài cùng với các đồng nghiệp đã tiến hành nghiên cứu đặc điểm địa lý tự nhiên và kinh tế xã hội của khu vực miền Trung; tính toán, phân tích đặc điểm mưa lũ khu vực miền Trung trong đó có nguyên nhân hình thành mưa lũ, các hình thế thời tiết gây mưa lớn sinh lũ; nghiên cứu ứng dụng các mô hình toán thủy văn thủy lực cho 2 lưu vực sông Thạch Hãn, tỉnh Quảng Trị và sông Kôn – Hà Thanh, tỉnh Bình Định để xem xét các phương án tiêu thoát lũ bằng biện pháp công trình, để xây dựng các bản đồ ngập lụt ứng với các tần suất mưa lũ khác nhau; Đồng thời tiến hành nghiên cứu các phương pháp dự báo thủy văn (cả các phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại) để đánh giá lựa chọn và xây dựng phương án và quy trình dự báo lũ thích hợp cho các sông lớn miền Trung.


Các phương pháp nghiên cứu chung mà nhóm nghiên cứu sử dụng bao gồm : Phương pháp điều tra, thu thập số liệu, thông tin; Phương pháp phân tích, tổng hợp số liệu, thông tin, lập ngân hàng dữ liệu ; Phương pháp mô hình hoá (nghiên cứu ứng dụng các mô hình thủy văn, thủy lực, mạng trí tuệ nhân tạo) ; Phương pháp ứng dụng kỹ thuật Viễn thám và Hệ thông tin Địa lý và Phương pháp chuyên gia đánh giá v.v….


Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và tính toán đó, Đề tài đã tiến hành xem xét và phân tích các giải pháp phòng chống lũ lụt được đưa ra trong ‘‘Chiến lược và chương trình hành động quốc gia giảm nhẹ thiên tai ở Việt Nam’’ đối với miền Trung.


Thế giới cũng thường xuyên phải đối diện với các thảm hoạ về lũ lụt, điển hình như Ấn Độ, Srilanca, Hoa Kỳ,…  Việc nghiên cứu các giải pháp phòng lũ lụt được đặc biệt quan tâm và hướng tiếp cận của họ cũng là sự kết hợp giữa các giải pháp công trình và phi công trình. Các giải pháp công trình thường được sử dụng như hồ chứa, đê điều, cải tạo lòng sông… được sử dụng rất nhiều, các giải pháp phi công trình như xây dựng bản đồ nguy cơ ngập lụt, quy hoạch trồng rừng và bảo vệ rừng, xây dựng và vận hành các phương án phòng tránh lũ lụt và di dân khi cần khi có thông tin dự báo và cảnh báo chính xác được sử dụng cũng rất nhiều. Để làm cơ sở cho việc lựa chọn và kết hợp giải pháp nào trong số các giải pháp công trình và phi công trình, họ cũng thường sử dụng các phương pháp như đã nêu trên, đặc biệt là sử dụng phương pháp mô hình hoá. Phòng chống thiên tai lũ lụt đã trở thành một sự nghiệp nghiên cứu thường xuyên ở các nước này, không những thế, nó còn lôi kéo sự tham gia của nhiều quốc gia thể hiện ở việc hình thành các trung tâm nghiên cứu lớn trong khu vực và trên thế giới phòng chống thiên tai như Trung tâm Dự phòng thiên tai Châu Á (ADPC), Trung tâm Giảm nhẹ thiên tai Châu Á (ADRC)…


       Ở Việt Nam, phòng chống thiên tai nói chung và phòng chống lũ lụt nói riêng cho các tỉnh miền Trung được Chính phủ đặc biệt quan tâm và đầu tư rất nhiều kinh phí cho công tác nghiên cứu. Các nghiên cứu về vấn đề này có thể kể đến là ‘Chiến lược và chương trình hành động quốc gia giảm nhẹ thiên tai ở Việt Nam’ do Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc và Bộ NN & PTNT thực hiện, ‘Nghiên cứu phát triển và quản lý tài nguyên nước quốc gia cho 14 lưu vực lớn của Việt Nam’ trong đó có quy hoạch phòng lũ cho một số tỉnh Miền Trung do Bộ NN & PTNT và JICA thực hiện, một số đề tài NCKH cấp Nhà nước, cấp bộ, cấp tỉnh (ngân sách tỉnh) liên quan đến xây dựng các phương án phòng lũ, xây dựng bản đồ ngập lụt cho các tỉnh miền Trung cũng đã được thực hiện như : Dự án ‘Định hướng Quy hoạch lũ Miền Trung’ làm từ tháng 8 năm 1996 đến tháng 12 năm 2001, Đề tài cấp nhà nước: ‘Nghiên cứu dự báo chống xói lở bờ sông miền Trung’ thực hiện từ đầu năm 2000 đến cuối 2002, Đề tài cấp bộ: ‘Nghiên cứu xác định khẩu độ thoát lũ hợp lý của các công trình giao thông thuỷ lợi thuộc lưu vực sông Thu Bồn  (Quảng Nam)  hoàn thành năm 2001 v.v…


            Kết quả đạt được từ những đề tài trên đã có đóng góp đáng kể vào công tác phòng chống lũ lụt ở miền Trung ở những cấp độ và khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, phòng chống lụt ở nước ta vẫn cần phải tiếp tục được nghiên cứu vì sự biến đổi của khí hậu toàn cầu, các hiện tượng khí hậu cực đoan vẫn thi nhau hoành hành sinh mưa lũ lớn gây ngập lụt ở các tỉnh miền Trung hàng năm.  Những đề tài nghiên cứu như thế này vẫn sẽ rất cần thiết được đầu tư thực hiện để góp phần vào thực tiễn công tác phòng chống thiên tai của nước ta nói chung và phòng chống lũ lụt ở miền Trung nói riêng.


            Riêng với đề tài NCKH cấp Bộ Nghiên cứu giải pháp thoát lũ cho một số sông lớn miền Trung nhằm bảo vệ các khu kinh tế tập trung, các khu dân cư ven sông, dọc quốc lộ”  được thực hiện cho hai sông Kôn – Hà Thanh – Bình Định và sông Thạch Hãn – Quảng Trị làm đại diện, sau một thời gian nghiên cứu đã rút ra những kết luận sau:


– Thứ nhất sông suối miền trung không lớn, ngắn, sông dốc, vùng đồng bằng nhỏ hẹp. Sông không có phần trung lưu hoặc có nhưng không đáng kể, phần đồng bằng sông phân tách thành nhiều nhánh nhỏ nên khi xảy ra lũ lớn thường tràn ngập toàn bộ vùng đồng bằng.


– Lượng mưa năm của khu vực miền trung nhìn chung là lớn, lại tập trung vào 3 tháng mùa mưa nên lũ thường xảy ra lớn. Đề tài đã xác định được những hình thế thời tiết gây mưa lớn, lũ lớn ở Bình Định nói riêng, các tỉnh ven biển Miền Trung nói chung, đó  là:


·         Bão và áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) gọi chung là xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ).


·         Không khí lạnh (KKL) hoặc KKL hội tụ với tín phong.


·         Giải hội tụ nhiệt đới (HTNĐ) trong đó có nhiễu động xoáy (dưới dạng một áp thấp đóng kín) đi vào bờ biển.


·         Tổ hợp của XTNĐ với KKL hoặc với dải HTNĐ hoặc đồng thời với cả 2.


·         Tổ hợp của KKL với XTNĐ hoặc với dải HTNĐ hoặc đồng thời với cả 2.


·         Tổ hợp của HTNĐ với KKL hoặc với XTNĐ hoặc đồng thời với cả 2.


      – Đã xác định được lượng mưa 1 ngày, 3 ngày và 5 ngày lớn nhất ứng với tần suất thiết kế cho các điểm mưa ở hai tỉnh.


      – Dựa vào số liệu thống kê ở Quảng Trị, Bình Định và các tỉnh Miền Trung cho thấy lũ lớn ở đây thường xảy ra vào tháng IX đến tháng XI. Lũ có cường suất  lên xuống nhanh, vận tốc dòng chảy lớn gây xói lở nghiên trọng và gây nên hiện tượng sa bồi thủy phá rất nguy hại cho sản xuất và đời sống của nhân dân.


        Đã xác định được mức độ lũ hàng năm ở hai tỉnh trên, ví dụ như ở đồng bằng sông Kôn-Hà Thanh tiêu chuẩn phân biệt lũ có ngập hay không ngập, dựa theo mực nước tại cầu Tân An lớn hơn 780 cm, đủ làm ngập đường giao thông liên huyện, liên xã. Với tiêu chuẩn này định lượng được trong 24 năm đo đạc từ 1977 đến 2000  chỉ có 3 năm không ngập  trong mùa lũ. Nói cách khác hiện tượng lũ tràn đồng ruộng, ngập đường giao thông liên xã là phổ biến với vùng đồng bằng duyên hải tỉnh Bình Định.


       Đối với sông Thạch Hãn qua số liệu cho thấy đỉnh lũ lớn nhất năm phần lớn xuất hiện vào tháng X (khoảng từ 41.8% đến 46.2%), tháng có trận lũ lớn nhất năm nhiều thứ hai là tháng IX, bằng một nửa tháng X và tháng XI số lũ lớn nhất năm bằng 1/3 tháng X. Trong 26 năm có số liệu thì ở Thạch hãn có 14 năm lũ vượt báo động cấp III.


            – Thiệt hại do ngập lụt ở vùng đồng bằng duyên hải miền Trung chủ yếu do tốc độ nước chảy lớn, gây chết người, sập nhà, sa bồi thuỷ phá. Tác hại do thời gian ngập kéo dài, hay độ sâu ngập lớn không phải nguy cơ trực tiếp.


  Trong báo cáo cũng đã tính toán thủy lực đánh giá vai trò của việc mở rộng mặt cắt (hệ thống sông Kôn – Hà Thanh), việc xây dựng cống phân lũ An Tiêm. Việc các hồ chứa tham gia cắt lũ (hồ Định Bình – Bình Định, hồ Phú Thành – Quảng Trị).


              Đã xây dựng được các phương pháp dự báo lũ cho hệ thống sông Kôn – Hà Thanh, sông Thạch Hãn Quảng Trị với thời gian dự kiến là 6 giờ và 12 giờ.


              Đưa ra các giải pháp có tính liên hoàn để phòng chống lũ, giảm nhẹ thiên tai hệ thống sông Kôn – Hà Thanh.


  Ngoài ra để sử dụng số liệu khí tượng thủy văn được thuận tiện trong các bài toán khác nhau đề tài đã xây dựng phần mềm cơ sở dự liệu ( lấy tỉnh Quảng Trị làm ví dụ).



PGS.TS Lê Văn Nghinh cùng đồng nghiệp đã dồn tâm huyết của mình với đề tài nhằm đóng góp một phần trong “Chiến lược và chương trình hành động quốc gia giảm nhẹ thiên tai ở Việt Nam” đặc biệt đối với miền Trung. Ông cũng như tất cả các nhà khoa học, các thầy cô giáo trong trường Đại học Thủy lợi luôn phấn đấu hết mình vì sự nghiệp Thủy lợi, vì sự lớn mạnh của đất nước, sự phấn đấu đó thể hiện trong từng công việc mà họ đã, đang và sẽ làm./.


 

Mây sáng