- Bối cảnh và yêu cầu đổi mới
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ của dân tộc, với những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển đất nước nhanh và bền vững, cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy của Đảng cộng sản Việt Nam. Trong đó, Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị nhấn mạnh vai trò đột phá của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Cùng với đó, chủ trương tự chủ đại học đã mở ra không gian phát triển mới cho các cơ sở giáo dục đại học, trong đó có Trường Đại học Thủy lợi.
Trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số và trí tuệ nhân tạo (AI) đã trở thành lực đẩy mạnh mẽ, làm thay đổi sâu sắc mọi lĩnh vực, đặc biệt là giáo dục đại học. Việc ứng dụng AI, Big Data, Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây… không chỉ mở ra phương thức đào tạo và nghiên cứu mới, mà còn tạo ra áp lực đổi mới toàn diện cơ cấu tổ chức và phương thức vận hành của các cơ sở giáo dục.
Trường Đại học Thủy Lợi với lịch sử hơn 65 năm xây dựng và phát triển, đã và đang khẳng định vai trò trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực tài nguyên nước, môi trường, phòng chống thiên tai, giao thông và phát triển hạ tầng, từng bước khẳng định vai trò trong các lĩnh vực kinh tế, công nghệ và xã hội… Hiện nay, Trường có 9 đơn vị hoạt động khoa học công nghệ, trong đó 5 đơn vị triển khai theo mô hình kết hợp Khoa & Viện và có 4 đơn vị KH&CN độc lập.
Thực tiễn cho thấy, uy tín, chất lượng và sự lớn mạnh của các đơn vị Viện và Trung tâm có sự nâng cao đáng kể trong 5 năm qua, đặc biệt ở các Viện gắn với Khoa, cho thấy tiềm năng lớn khi mô hình này được tổ chức hiệu hiệu quả và bền vững. Việc tổ chức hoạt động dưới mô hình Khoa và Viện đã và đang góp phần gia tăng tính chuyên sâu, gắn kết giữa đào tạo, nghiên cứu khoa học với thực tiễn, từng bước gắn kết giữa Nhà trường và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, hoạt động của mô hình Khoa & Viện vẫn còn những tồn tại và hạn chế như sự phân công chức năng nhiều khi chưa rõ ràng, cơ chế phối hợp còn chưa đủ mạnh, nguồn lực và tiềm lực chưa được khai thác hiệu quả, các chương trình nghiên cứu và chuyển giao còn chưa liên thông và đồng bộ.
II. Thách thức và cơ hội
Từ những bối cảnh như đã nêu ở trên, tôi nhận thấy có một số thách thức và cơ hội chủ yếu trong thời gian tới như sau:
- Cơ hội
Hiện nay, Đảng và Nhà nước đã định hướng phát triển KH&CN như một trụ cột chiến lược của nền kinh tế đất nước. Mặt khác, nhu cầu xã hội và doanh nghiệp với đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và chuyển đổi số ngày càng lớn;
Công nghệ số và AI giúp tự động hóa nhiều khâu quản lý, tăng hiệu quả vận hành và khả năng phân tích dữ liệu lớn hỗ trợ dự báo, tối ưu hóa mô hình quản lý đào tạo và nghiên cứu. Cùng với nó là nền tảng học tập trực tuyến, phòng thí nghiệm ảo, mô phỏng số mở ra phương pháp giảng dạy mới, thu hút người học rất phát triển.
Ngoài ra, Trường ĐH Thủy lợi có đội ngũ chuyên gia đầu ngành đông đảo, phòng thí nghiệm, cơ sở vật chất hiện đại và uy tín cao trong đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ được tích lũy hơn 65 năm.
- Thách thức
Chưa có chế tài đủ mạnh để khuyến khích và gắn kết đội ngủ giảng viên thực hiện nhiệm vụ và dự án ở các đơn vị KHCN, chính vì vậy chưa phát huy hết hiệu quả hoạt động của mô hình Khoa và Viện;
Sự hợp tác và hội nhập của doanh nghiệp trong nước sẽ hết sức mạnh mẽ cả về chiều sâu và chiều rộng trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Mặt khác, áp lực chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo trong đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, yêu cầu hệ thống quản lý, giáo trình, giảng dạy và nghiên cứu phải thích ứng nhanh.
Môi trường hỗ trợ nghiên cứu và chuyển giao còn đang trong giai đoạn hình thành, cơ chế đồng bộ chưa đầy đủ, trong khi đó cuộc cách mạng 4.0 sẽ đòi hỏi ngày càng nhiều nguồn lao động chất lượng cao.
Tuyển sinh trong thời gian tới sẽ tiếp tục có nhiều biến động và không ổn định, cùng với đó là chủ trương tự chủ về tài chính của Nhà nước đối với các Trường ĐH công lập. Từ hai yếu tố này sẽ tạo ra là một thách thức lớn.
III. Một số giải nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình Khoa – Viện trong thời gian tới đối với Trường ĐH Thủy lợi
Cần hoàn thiện cơ chế để gắn kết và nâng cao hiệu quả hơn nữa giữa Khoa và Viện trong đào tạo cũng như KHCN để phát huy tiềm lực của cán bộ, giảng viên trong đơn vị. Phấn đấu mỗi cán bộ, giảng viên là một chuyên gia giỏi trong lĩnh vực chuyên môn của mình, coi trọng đúng mức đội ngũ cán bộ ở các đơn vị KHCN;
Ứng dụng chuyển đổi số toàn diện trong hoạt động đào tạo và KHCN đồng thời xây dựng hệ thống quản lý đề tài, dự án, sản phẩm KH&CN và hồ sơ năng lực trực tuyến;
Xây dựng cơ chế để phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo nội bộ, tăng cường xây dựng các nhóm nghiên cứu liên ngành, liên lĩnh vực phối hợp nhiều Khoa, nhiều Viện. Đẩy mạnh thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu, hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong toàn Trường;
Khoa và Viện tiếp tục mở rộng hợp tác với các Bộ, Ngành, địa phương và các doanh nghiệp để liên kết trong đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ; thúc đẩy hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học nước ngoài trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đồng hướng dẫn nghiên cứu sinh, trao đổi giảng viên, sinh viên.
Đẩy mạnh xây dựng hạ tầng số đáp ứng yêu cầu trong đạo tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trong thời kỳ công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm và pháp lý đủ mạnh để xây dựng năng lực mạnh, thương hiệu, uy tín cao cho các đơn vị Khoa và Viện đủ sức cạnh tranh trong kỷ nguyên mới;
Đẩy mạnh tự chủ và tăng cường trách nhiệm cho mô hình Khoa và Viện trong đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và chuyển đổi số. Gắn KPI hoạt động đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và chuyển đổi số với đánh giá thi đua của cả Khoa và Viện.
Mô hình kết hợp Khoa và Viện là một hướng đi chiến lược, phù hợp với xu thế đại học nghiên cứu – đổi mới sáng tạo. Với quyết tâm chính trị cao, nếu tổ chức vận hành hiệu quả mô hình này, Trường Đại học Thủy lợi sẽ không chỉ phát triển mạnh mẽ về học thuật mà còn khẳng định vị thế trong công cuộc chấn hưng dân tộc bằng trí tuệ và khoa học.
PGS.TS Lê Văn Chín
Trưởng Khoa Kỹ thuật tài nguyên nước kiêm Viện Trưởng Viện Kỹ thuật tài nguyên nước