
Logo Ngày nước thế giới
Ngày Nước thế giới được tổ chức hàng năm nhằm kêu gọi sự quan tâm toàn cầu về vai trò quan trọng của nước và tuyên truyền, vận động về quản lý bền vững tài nguyên nước.
Là ngày quốc tế tôn vinh tài nguyên nước, đặc biệt là tài nguyên nước ngọt. Ngày Nước thế giới đầu tiên được khởi xướng tại Hội nghị Liên hiệp quốc về Môi trường và Phát triển (UNCED) năm 1992 tại Rio, Brazil. Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã lấy ngày 22 tháng 3 năm 1993 là ngày Nước thế giới đầu tiên. Và từ đó, Ngày nước thế giới được kỷ niệm hàng năm trên toàn cầu. Mỗi năm, một vấn đề cụ thể về nước sẽ được nhấn mạnh

Ngày Nước thế giới 2014 nhấn mạnh mối quan hệ Nước – Năng lượng và được Trường Đại học Liên hiệp quốc (UNU) và Tổ chức phát triển công nghiệp liên hiệp quốc (UNIDO) – đại diện cho UN-Water điều phối. Chương trình chào mừng Ngày nước thế giới 2014 được bắt đầu bằng Lễ giới thiệu Báo cáo phát triển nước của các quốc gia trên thế giới phiên bản năm 2014 với tựa đề “Nước và Năng lượng”. Báo cáo này phân tích chi tiết mối liên hệ giữa nước và năng lượng trong bối cảnh phát triển bền vững. Báo cáo phát triển nước toàn cầu năm 2014 là kết quả của các nỗ lực chung của các cơ quan Liên hiệp quốc và các cơ quan cấu thành UN-Water, hợp tác với các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và các bên liên quan khác. Ngày Nước thế giới 2014 cũng kết nối với chủ đề chính của Tuần lễ nước toàn cầu tại Stockholm. Sự kiện chủ chốt của Ngày Nước thế giới sẽ được tổ chức tại Tokyo, Nhật Bản và cùng với hàng loạt các sự kiện cấp quốc tế và quốc gia khác trên toàn cầu.
Bàn về vấn đề nước và năng lượng với sự phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo,bất kể giai đoạn phát triển nào, mọi vị trí, nguồn lực tài nguyên và cả xã hội đều phải đối mặt với vấn đề về tiếp cận an toàn nguồn nước và năng lượng.
Với những khu vực nghèo nhất, nơi vẫn đang thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, tiếp cận nguồn nước an toàn và năng lượng là nền tảng cho việc xóa đói giảm nghèo và phá vỡ vòng luẩn quẩn của đói nghèo và lạc hậu. Trong nền kinh tế phát triển, nước và năng lượng tạo ra dồi dào hơn và dễ dàng tiếp cận hơn là một phần của tiến bộ kinh tế nhưng đi kèm với đó là những thách thức về các nguồn cấp nước và năng lượng có giới hạn trong khi nhu cầu lại ngày một tăng cao, ngoài ra còn có thách thức trong quản lý an ninh lương thực.
Do áp lực từ những vấn đề này và khan hiếm nước ngày một gia tăng, nên các quốc gia đã nhận thấy cần thiết phải chuyển dịch theo hướng tập trung quản lý các nguồn tài nguyên sẵn có để bảo tồn nguồn nước cho các hệ sinh thái và các lợi ích mà chúng cung cấp cho con người, cho nền kinh tế và cho việc bảo vệ môi trường.
Nước và năng lượng đều rất cần thiết cho cuộc sống, những người chưa tiếp cận điều kiện cơ sở vật chất tối thiểu thì hàng ngày họ vẫn phải vượt qua nhiều khó khăn như các gánh nặng tử vong hoặc sức khỏe kém, các hoạt động tiêu tốn thời gian cho lấy gỗ hoặc nước phục vụ cho các nhu cầu rất cơ bản của mình, nền giáo dục thấp, bất bình đẳng giới và các hậu quả khác do tái nghèo, cản trở kinh tế và tiến bộ xã hội. Cả nước và năng lượng đều có tiềm năng xóa bỏ nghèo đói do giảm nghèo, cải thiện sức khỏe, tăng năng suất lao động cũng như giảm bất bình đẳng giới, các điều kiện cho trẻ em và các mục tiêu phát triển xã hội khác.

Hài hòa giữa các mục tiêu phát triển nước và năng lượng cũng là một vấn đề quan trọng kể từ giai đoạn đầu của phát triển kinh tế. Điều này hoàn toàn đúng không những trong giai đoạn kinh tế chưa phát triển, khi mà than đá và gỗ là năng lượng phục vụ chủ yếu cho nhu cầu đun nấu mà còn trong giai đoạn kinh tế đã phát triển khi mà năng lượng và nước là đầu vào thiết yếu trong sản xuất thực phẩm và rất nhiều hàng hóa cũng như dịch vụ.
· – Từ năm 1990 đến năm 2010, có hơn 2 tỷ người được tiếp cận với nguồn nước uống đảm bảo.
· – Tỷ lệ người được sử dụng nước sạch tăng từ 76% năm 1990 lên 89% năm 2010.
· – Hơn 40% trong tổng số người không được sử dụng nước sạch sống cận Sahara, châu Phi.
· – Năm 2011, 768 triệu người vẫn chưa được tiếp cận với nguồn nước uống đảm bảo.
· – Tỷ lệ số dân tại khu ổ chuột trong các đô thị đã giảm từ 39% năm 2000 xuống 33% năm 2012. Hơn 200 triệu người được tiếp cận với nguồn đảm bảo, điều kiện vệ sinh được cải thiện, nhà ở kiên cố hoặc rộng rãi hơn.
Nguồn tin: UN Water 2014
Tác giả bài viết: dwrm dịch