Việt Nam hiện có khoảng 13.200km đê, trong đó có gần 2.600km đê biển và 10.600km đê sông. Riêng ở khu vực đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) có gần 3.000km đê sông đã được phân cấp, 1.855 cống qua đê các loại.
Cống qua đê là hạng mục quan trọng và cũng là điểm yếu của hệ thống đê. Phần lớn sự cố vỡ đê đều xảy ra tại vị trí cống và khoảng 25% sự cố cống qua đê là do mất ổn định thấm. Một số nhận định ban đầu từ các sự cố cống qua đê: (i) Các cống đều nằm trên nền cát; (ii) Giải pháp xử lý nền bằng cọc bê tông cốt thép (BTCT); (iii) Giải pháp chống thấm là đóng cừ thượng lưu hoặc cả thượng và hạ lưu; và (iv) Nền cống bị rỗng, cống hầu như đứng trên đầu cọc. Câu hỏi đặt ra:
- Tại sao trong thực tế làm việc, các sự cố liên quan đến thấm vẫn xảy ra mặc dù đã tính toán thiết kế đảm bảo độ bền thấm theo các qui định hiện hành?
- Việc đóng cọc BTCT vào trong nền cát làm thay đổi trạng thái tự nhiên của đất và nó ảnh hưởng thế nào đến các đặc trưng thấm trong nền?
- Trong trường hợp cọc BTCT có tác động bất lợi cho công trình, giải pháp nào để phòng tránh và đảm bảo an toàn cho cống trong suốt quá trình vận hành?
Để trả lời các vấn đề này, luận án nghiên cứu định lượng sự ảnh hưởng của hệ cọc BTCT đến các đặc trưng dòng thấm trong nền cát dưới đáy công trình. Kết quả nghiên cứu đáp ứng tính cấp thiết về mặt khoa học và thực tiễn nêu trên.
Luận án có nhiều ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Cụ thể:
Ý nghĩa khoa học: Xác định được qui luật biến đổi của áp lực thấm, phân bố gradien thấm trong nền cống có cọc BTCT so với nền không có cọc. Từ đó đề xuất, khuyến nghị điều chỉnh phương pháp tính toán thiết kế truyền thống trước đây nhằm tăng mức độ an toàn cho công trình.
Ý nghĩa thực tiễn: Làm rõ nguyên nhân hư hỏng của một số cống qua đê đã xảy ra trong thực tế, từ đó đề xuất được giải pháp xử lý thích hợp.
Chi tiết Luận án: TẠI ĐÂY
Một số hình ảnh khác
Bích Việt – Bình Dương