Đại thắng mùa xuân 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới – giai đoạn cả nước cùng tiến vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp Thuỷ lợi đứng trước yêu cầu phát triển đột biến với địa bàn mở rộng trên toàn quốc. Đối với Nhà trường, đây là thời kỳ thực hiện công tác kết hợp giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học, phục vụ sản xuất trong phạm vi cả nước, là bước ngoặt quan trọng đối với sự phát triển của Nhà trường.
Trước những biến chuyển nhanh chóng của tình hình và yêu cầu nhiệm vụ mới. Trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Chỉ thị 222-TTg của Thủ tướng Chính phủ và công tác kết hợp lao động sản xuất trong thời chiến, vận dụng sáng tạo nguyên lý phương châm giáo dục của Đảng, Nhà trường đã tích cực tham gia vào sự nghiệp phát triển thuỷ lợi ở các tỉnh phía Nam ngay sau ngày giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước, đã nhạy bén tổ chức các đoàn công tác gồm các cán bộ giảng dạy và các sinh viên năm cuối vào quy hoạch, khảo sát, thiết kế các công trình thuỷ lợi ở Trung bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Cuối năm 1975, đầu năm 1976 đã thành lập các Đoàn ĐH1, ĐH2 và ĐH3. Trong các Đoàn, Đảng uỷ đã thành lập các chi bộ và cử các Đảng uỷ viên phụ trách. Đây là mô hình "kết hợp" độc đáo, mạnh dạn, sáng tạo, gắn kết Nhà trường với xã hội, học đi đôi với hành. Các Đoàn ĐH đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đã phát triển thành Cơ sở 2 – ĐHTL tại Thành phố Hồ Chí Minh và Viện Đào tạo và Khoa học ứng dụng miền Trung tại Phan Rang (Ninh Thuận), Phan Thiết (Bình Thuận), Đà Lạt (Lâm Đồng) và Quy Nhơn (Bình Định) hiện nay.
Công tác tư tưởng luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của cả nước. Đã tổ chức nghiên cứu và quán triệt Nghị quyết Đại hội IV và Đại hội V của Đảng, các Nghị quyết 01 về tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng trong Nhà trường, Nghị quyết 14 về cải cách giáo dục, Nghị quyết 37 về chính sách khoa học kỹ thuật, Nghị quyết 31 về công tác an ninh của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IV)… Trong những năm 1977-1979 đất nước ta đứng trước những thử thách to lớn với cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc. Đảng bộ đã quán triệt, làm cho toàn thể cán bộ, giáo viên, công nhân viên và sinh viên trong Trường hiểu rõ nước ta đang ở trong tình trạng vừa có hoà bình, vừa có chiến tranh, nhiệm vụ cơ bản hiện nay là vừa công tác, giảng dạy, học tập vừa sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Công tác xây dựng Đảng tập trung vào triển khai cuộc vận động xây dựng Chi bộ, Đảng bộ trong sạch, vững mạnh theo Thông tư số 103 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá IV) tập trung vào các nội dung: đổi mới phong cách làm việc, giữ vững nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ đảng viên chống tiêu cực trong Đảng, tăng cường đoàn kết nội bộ, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Thực hiện Chỉ thị 83-CT/TƯ ngày 26/11/1979 của Ban Bí thư (khoá IV), công tác phát thẻ đảng viên đã được tiến hành đồng bộ với việc củng cố chi bộ, tăng cường công tác quản lý đảng viên, nâng cao ý thức Đảng cho đảng viên, nâng cao tính chiến đấu trong sinh hoạt Đảng. Trong hai năm 1980, 1981 Đảng bộ đã tổ chức 5 đợt phát thẻ đảng viên cho 411 đ/c chiếm 97% tổng số đảng viên. Thời kỳ này Đảng bộ kết nạp được 236 đảng viên. Năm 1982, 1983 Đảng bộ được công nhận là Đảng bộ trong sạch, vững mạnh.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết 14-NQ/TƯ (1979) về cải cách giáo dục; trên cơ sở đổi mới tư duy về công tác Thuỷ lợi, coi Nước là một Tài nguyên, Thuỷ lợi là một ngành kinh tế về Nước, Nhà trường đã sắp xếp, tổ chức lại ngành nghề đào tạo theo hướng diện rộng, chuyên môn hoá hợp lý. Đội ngũ cán bộ giảng dạy của Nhà trường được nâng cao trình độ và trưởng thành về nhiều mặt. Năm 1980 và 1984 Nhà nước đã phong hàm Giáo sư, Phó giáo sư cho 26 cán bộ giảng dạy của Trường (1 Giáo sư, 25 Phó giáo sư). Năm 1979, Nhà trường chính thức được công nhận là cơ sở đào tạo Sau đại học, đánh dấu một bước chuyển mới về chất trong công tác đào tạo.
Về quan hệ quốc tế, đã thiết lập quan hệ với Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Trường Đại học Roorkee (Ấn độ). Trường Đại học Tasken (Uzbekstan) và một số tổ chức phi chính phủ… Nhiều giáo viên của Trường được cử đi giảng dạy tại các Trường đại học ở Châu Phi theo hình thức chuyên gia.
Công tác nghiên cứu khoa học và phục vụ sản xuất phát triển mạnh trong phạm vi cả nước, đã triển khai hàng chục đề tài cấp Nhà nước, hàng trăm đề tài cấp Bộ, cấp Trường. Được Bộ giao chủ trì thiết kế nhiều công trình lớn như sông Rác, Tuyền Lâm, Liên Khương, Đặng Xá…
Các phong trào thi đua: "dạy tốt, học tốt, tổ chức tốt đời sống", "xây dựng tổ lao động xã hội chủ nghĩa", "xây dựng tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa"… tiếp tục được duy trì liên tục đã phát triển thành phong trào quần chúng sôi nổi và đã thu được kết quả nhiều mặt. Trong thời kỳ này, Nhà trường được tặng thưởng 3 Huân chương Lao động (hạng Ba, hạng Hai, hạng Nhất), được Bộ Thuỷ lợi, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp tặng cờ Trường tiên tiến xuất sắc, nhiều tập thể và cá nhân được tặng thưởng Huân chương, Bằng khen…
Công đoàn Trường hoạt động có chiều sâu và có hiệu quả, làm tốt công tác đời sống, phát huy tinh thần tự lực tự cường, khắc phục mọi khó khăn để công tác tốt, giảng dạy tốt trong điều kiện nền kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Nhà trường luôn đi đầu trong các phong trào do Thành đoàn phát động. Năm 1979, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ gần 1.200 cán bộ, giáo viên, đoàn viên thanh niên tham gia Trung đoàn 11, Binh đoàn Nguyễn Huệ, Quân khu Thủ đô xây dựng phòng tuyến bảo vệ biên giới phía Bắc và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, được nhận cờ thi đua của Binh đoàn. Lực lượng tự vệ cơ quan được củng cố, 20 cán bộ, giáo viên, sinh viên đã lên đường nhập ngũ, góp phần cùng quân và dân cả nước đánh thắng cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc của Tổ quốc.
Thời kỳ này Đảng bộ tiến hành 5 kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ Trường nhiệm kỳ.