Tri ân người chiến sĩ – Mãi mãi tuổi 20

Những chiến sĩ là sinh viên Trường Đại học Thủy lợi lên đường nhập ngũ những năm 70 thế kỷ XX – Ảnh tư liệu 

Liệt sĩ Trần Văn Thuận từng là cựu sinh viên lớp 9N, ngành Thủy nông (nay là ngành Kỹ thuật tài nguyên nước) của trường Đại học Thủy lợi.

Theo lời kể của Thượng tá, Anh hùng LLVTND Trần Văn Xuân – một cựu sinh viên khóa 8 của trường, Liệt sĩ Trần Văn Thuận hy sinh sau hơn 2 năm nhập ngũ. “Thuận là người bạn chiến đấu “5 cùng” với tôi: cùng học Thủy Lợi, cùng nhập ngũ, cùng vào d172, cùng chiến đấu tại An Lộc, rồi cùng có giấy báo tử một ngày. Tôi chỉ bị thương, may có cây que trùm lên dưới đất sâu gần 1 mét rưỡi, cách hố bom khoảng 5m.”

Thượng tá, Anh hùng LLVTND bồi hồi kể lại những hồi ức chiến tranh gắn với Liệt sĩ Trần Văn Thuận

Ngày 24-8-1970, khi đang là sinh viên năm cuối trường Đại học Thủy lợi và thực hiện đồ án tốt nghiệp, Trần Văn Xuân xung phong lên đường nhập ngũ.

Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh leo thang đánh phá miền Bắc, tiếp tục đưa quân tăng cường chiến tranh xâm lược Miền Nam, rất nhiều sinh viên đại học đã gác bút nghiên lên đường nhập ngũ với quyết tâm “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

Âm vang của giai điệu “Ba sẵn sàng”, của “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”… rộn ràng trên đường phố, trên giảng đường đã thúc giục chúng tôi ra trận. Đó là khí thế, là tình yêu nước của cả một thế hệ trong kháng chiến”.

Liệt sĩ, cựu sinh viên Trần Văn Thuận

Thượng tá Trần Văn Xuân kể lại:

Sinh viên trường Đại học Thủy lợi khi ấy được Ban chỉ huy quân sự quận Đống Đa bàn giao cho một đơn vị huấn luyện quân tăng cường, đưa vào Thị Long – Thanh Hóa. Sau ba tháng huấn luyện các khoa mục như rèn luyện đi bộ, hành quân đêm, gùi đá, leo núi, các bài xạ kích cố định, vận động, ném lựu đạn, đánh thuốc nổ …. của chiến sỹ mới, cuối năm 1970, các ông được chọn đi huấn luyện phòng không tại Văn Điển, rồi được phân công về Tiểu đoàn 42, Trung đoàn 263 thuộc Sư đoàn phòng không 361.

Mùa xuân năm 1971, bộ đội ta lần đầu có tên lửa phòng không vác vai 9K32 Strela 2. Bốn đại đội tên lửa mang vác được huấn luyện cấp tốc tại làng Thắng Trí, xã Thanh Trí, huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phú (nay là huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội) theo hướng dẫn của các chuyên gia. Lớp học có rào chắn, có vệ binh gác; học xong tài liệu, vở ghi, khí tài đều không được mang về mà vệ binh cho vào hòm khóa lại, hôm sau học tiếp lại mở ra. Tất cả chiến sĩ đều được quán triệt tuyệt đối giữ bí mật, không được thư từ liên lạc với bất kỳ ai, kể cả người thân cũng không tiết lộ nhiệm vụ đang thực hiện.

Với tư chất thông minh và các kiến thức kỹ thuật được các thày cô giảng dạy ở trường đại học, chỉ với 3 tháng huấn luyện, các chiến sĩ đã nhanh chóng nắm bắt được kỹ thuật sử dụng loại vũ khí mới này. Họ hành quân đêm về Xuân Mai tiến hành bắn đạn thật. Kết thúc huấn luyện, những chàng trai thư sinh trong Tiểu đoàn 172 với vũ khí mới lặng lẽ bí mật vượt Trường Sơn, bổ sung cho các chiến trường: đại đội 1, đại đội 2 tách ra đi Quảng Trị; hai ông Xuân, Thuận cùng đại đội 3 và đại đội 4 vào chiến trường B2. Đầu mùa hè năm 1972 thì tới ngã ba Đông Dương, được nghe thời sự tin chiến thắng Bình Long, ai cũng phấn khởi rồi tiếp tục hành quân về đến căn cứ Cà Chay – Mi Mốt (Campuchia).

Được cấp trên thông báo cho nghỉ ngơi 10 ngày nhưng đến ngày thứ tư thì được lệnh vào đội hình chiến đấu, phối hợp với Sư đoàn 9 và Sư đoàn 7 mở màn trận đánh quân Việt Nam cộng hòa tái chiếm thị xã Hớn Quản. Sau lần đánh địch tái chiếm Hớn Quản không thành, đại đội 4 và một bộ phận đại đội 3 hành quân theo Sư đoàn 5 bộ binh xuống mặt trận phía nam phối hợp cùng các mặt trận đánh nhằm phân tán co kéo lực lượng địch. Ông Xuân bị sốt rét cùng lực lượng thương binh còn lại lui về phía sau chữa trị và củng cố huấn luyện sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới.

Trong lúc này, ông Thuận theo Đại đội 3 ở lại phối thuộc với Trung đoàn 71, đoàn pháo binh miền đông Nam bộ (nay là Lữ đoàn phòng không 77- QK7) chốt chặn đường 13 khu vực Tàu Ô, Tân Khai, Xóm Ruộng. Đây là tuyến bàn đạp cực kỳ quan trọng cả về chiến lược cũng như tác chiến chiến thuật. Nếu giữ được, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta phát triển tấn công xuống trung tuyến; nếu mất, địch sẽ có cơ hội chiếm lại Lộc Ninh, Tây Ninh, Bình Long, Bình Phước. Cục diện chiến tranh sẽ hết sức bất lợi cho ta.

Đêm ngày mùng 3 rạng ngày mùng 4/6/1972, ông Xuân được đồng chí Phan Công Xê đưa từ trung tâm Hớn Quản ra thì giữa đường lạc nhau. Được đồng chí truyền đạt (liên lạc viên) Sư đoàn 9 dẫn đường. Tới chiều, đang bước thấp bước cao vì sốt rét qua khu vực suối Xa Cát thì gặp mũi chiến đấu B3 gồm 11 chiến sỹ do Trung đội trưởng Nguyễn Khắc My chỉ huy vừa đi chiến dịch đang hành quân về cứ. Trông ai cũng lấm lem, khắc khổ nhưng gương mặt thì rạng ngời niềm vui bởi chiến thắng liên tiếp của đơn vị. Anh em rủ ông Xuân ở lại cùng sinh hoạt với tiểu đội nhưng ông xin phép đi tiếp, để đồng chí dẫn đường sớm được trở về.

Khu vực này là một phần của rừng cao su đã bị bom đạn phá trụi, cây dại mọc lúp xúp. Hai người nhanh chóng vượt qua khoảng trống tới bìa rừng cao su thì bất chợt máy bay B52 của địch lao tới, chúng thả 3 loạt bom chặn ta tăng tiếp viện, ông Xuân chợt rùng mình bởi vị trí vừa gặp Thuận, khu rừng cao su đen kịt màu khói bom, trơ gốc và cành. Chưa kịp phản ứng thì ông cũng ngất lịm.

Ba ngày sau tỉnh dậy, thấy mình đang nằm tại căn cứ ở Campuchia. Đồng đội cho biết, sau khi tạm dứt bom đạn đơn vị đi tìm kiếm, chỉ thấy được 1 khẩu AK, 1 cơ cấu phóng A72, một phần thi thể của đồng chí truyền đạt (liên lạc viên) trên ngọn cao su, ai cũng nghĩ là Xuân. Mũi chiến đấu đêm đó hy sinh một nửa, các chiến sỹ trẻ chỉ tìm thấy anh Thống bị thương, mai táng được thi thể của anh Nông Bằng Tâm bị mảnh bom vào đầu.

Họ đã soi từng hòn đá, lật từng gốc cây, mà chỉ thấy 1 cái đùi còn khét khói bom và những đám cháy trên trảng đất đỏ loét, lở lói, nham nhở, chắc là anh Hạc vì anh ấy cao to, trắng trẻo, đẹp trai; trừ Trung đội trưởng Nguyễn Khắc My đã lập gia đình (trong đoàn đến xã Tân Tiến hôm nay có con trai của ông My, anh Hoan cũng là một cựu sinh viên trường Đại học Thủy lợi), còn lại đều ở tuổi đôi mươi …

 “B52 đánh ác liệt, liên tục quần thảo kể cả tìm thấy xác đồng đội để chôn cũng khó mà giữ được vẹn nguyên”. Quệt dòng nước mắt lăn dài ông tiếp câu chuyện “Cả vệt bom B52 đánh vào nơi chúng tôi đang trú ẩn có 6 người thì trúng bom mất 5 người, còn mình tôi sống sót”. “Chúng tôi đã về lại nơi các anh đã anh dũng hy sinh, thuê cả máy xúc, máy đào nhưng vẫn chưa tìm thấy hài cốt đồng đội. Hầm chiến đấu vẫn còn, cỏ đã lên xanh tốt, tuy nhiên mối xung quanh nhiều lắm, khả năng xương cũng không còn để mà tìm”, Thượng tá Trần Văn Xuân nghẹn ngào.

Thượng tá Trần Văn Xuân cho biết: Năm 2017, ông đã nhận được tin vui khi liên hệ được với thân nhân của đồng đội “5 cùng” – đó là Liệt sĩ Trần Văn Thuận, người bạn mà bấy lâu ông vẫn tìm kiếm.

Năm 2019, Trường Đại học Thủy lợi cũng đã có dịp về với quê hương của Liệt sĩ, cựu sinh viên Trần Văn Thuận thắp nén hương thơm và đón nhận những kỷ vật thiêng liêng của liệt sĩ từ phía gia đình.

Những kỷ vật đó là hình ảnh, là hình dáng người con của gia đình còn ở lại. Kỷ vật Nhà trường đón nhận được lưu giữ nhằm giáo dục truyền thống, giáo dục ý nghĩa nhân văn, cũng là nguồn tư liệu quý trong quá trình đào tạo con người của Nhà trường. Đây cũng có thể coi là một món quà mang ý nghĩa lịch sử trong dòng chảy hơn 60 năm lớn mạnh của Nhà trường về những giai đoạn hào hùng đã qua.

Đoàn công tác Trường Đại học Thủy lợi đến thắp nén hương trên bàn thờ Liệt sĩ Trần Văn Thuận tại nhà riêng (Ảnh tư liệu năm 2019)

Gia đình trao kỷ vật của Liệt sĩ Trần Văn Thuận cho Nhà trường (Ảnh tư liệu năm 2019)

Đúng như chia sẻ của Thượng tá Trần Văn Xuân: “Vượt trên nỗi đau mất người thân của gia đình, bù lại ngày hôm nay anh Thuận được bạn bè nhớ đến, được trường đại học nơi anh học tập nhớ đến, đó là niềm an ủi không có gì có thể so sánh được. Đây là có thể coi là niềm hạnh phúc lớn đối với gia đình.

Chúng tôi tự hào có những người đồng đội như thế, địa phương tự hào có những người con như thế, nhà trường tự hào có những người sinh viên như thế”.

Theo Trường Đại học Thủy lợi